Đạo đức Phật giáo qua Năm giới

"Trí tuệ được giới hạnh (đạo đức) làm cho thanh tịnh. Giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Ở đâu có giới, ở đó có trí tuệ; ở đâu có trí tuệ ở đó có giới. Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ, người có trí tuệ nhất định có giới hạnh”
"Trí tuệ được giới hạnh (đạo đức) làm cho thanh tịnh. Giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Ở đâu có giới, ở đó có trí tuệ; ở đâu có trí tuệ ở đó có giới. Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ, người có trí tuệ nhất định có giới hạnh”
NSGN - "Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại an lạc và hạnh phúc cho mọi loài… Nếp sống ấy phải được đem ra hành trì, không phải lễ bái, cầu xin".

1. Tổng quan về đạo đức

1.1. Khái niệm đạo đức(1)

Trong tiếng Anh, đạo đức được diễn đạt bằng hai từ ethicsmorality. Ethics xuất phát từ tiếng Hy Lạp, mang hàm nghĩa lý luận, phân tích; còn morality bắt nguồn từ tiếng Latin, thiên về các chuẩn mực đang hiện hành trong xã hội. Ở Ấn Độ cổ đại, tuy chưa dùng khái niệm “đạo đức”, nhưng từ sīla - thường được dịch là “giới hạnh” - đã phản ánh tinh thần tự tiết chế, kỷ luật của hành vi đạo đức.

Từ góc nhìn phổ quát, đạo đức là hệ thống các nguyên tắc giúp con người điều chỉnh hành vi, sống thiện lành, hài hòa với cộng đồng. Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, đó là “những tiêu chuẩn được xã hội thừa nhận, quy định hành vi giữa con người với nhau”. Trong tâm lý học, đạo đức còn là động lực giúp con người tự nguyện sống đúng với lợi ích chung.

Riêng về “đạo đức học” thì thuật ngữ này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là “ethikos” và liên quan với từ “ethos” nghĩa là phẩm hạnh, tiếng Latin quen gọi là “triết học đạo đức”.

Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý trí mà thiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm, nhằm nêu ra một nguyên tắc tổng quát để xếp loại và đánh giá các hành động.

Đạo đức học nhằm nêu định cứu cánh của mọi hành động hợp lý mà con người cố vươn tới, tức mục đích, lý tưởng của cuộc đời và tìm các phương cách giúp con người tiến tới mục đích lý tưởng ấy(2).

Thông thường đạo đức học được mô tả là “ngành khoa học nghiên cứu đạo đức phẩm hạnh”.

1.2. Phân loại đạo đức

Theo phân tích của phương Tây, đạo đức học được chia làm ba lĩnh vực chính:

Đạo đức học miêu tả: mô tả và phân tích khách quan các giá trị đạo đức hiện hành trong xã hội;

Đạo đức học tiêu chuẩn: đề xuất các nguyên tắc hành động, định hình một đời sống lý tưởng;

Siêu đạo đức học: nghiên cứu về ý nghĩa và tính logic trong cách lý giải đạo đức.

Trong ba dạng này, đạo đức Phật giáo gần với đạo đức học tiêu chuẩn, bởi vì giới luật trong đạo Phật không chỉ nêu rõ điều nên làm và điều cần tránh, mà còn hướng con người tới đời sống tỉnh thức, từ bi và trí tuệ. Giới luật chính là nền tảng hình thành nhân cách phạm hạnh, đồng thời là mô hình luân lý cho một xã hội lý tưởng, an vui và không tổn hại.

2. Đạo đức Phật giáo

2.1. Định nghĩa

Trong lịch sử Phật giáo, chưa hề có một ngành học liên quan tới việc phân tích những chuẩn mực đạo đức về triết học. Khi Phật giáo đến phương Tây, bộ môn đạo đức học Phật giáo mới hình thành và phát triển. Sự khởi đầu của môn này có thể xem là xuất hiện vào năm 1964 khi Winston King xuất bản cuốn Hy vọng vào Niết-bàn. Tiếp theo đó là Đạo đức học Phật giáo (1970) của Hammalava Saddhatissa.

Theo Hòa thượng Thích Minh Châu thì đạo đức Phật giáo được định nghĩa như sau: “Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại an lạc và hạnh phúc cho mọi loài… Nếp sống ấy phải được đem ra hành trì, không phải lễ bái, cầu xin”.

Học thuyết Vô ngã của Phật giáo được xem như là đạo đức tối thượng. Đạo Phật chủ trương tu tập đạo đức để trở thành bậc giác ngộ, và đồng thời cũng quan niệm rằng: “Trí tuệ được giới hạnh (đạo đức) làm cho thanh tịnh. Giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Ở đâu có giới, ở đó có trí tuệ; ở đâu có trí tuệ ở đó có giới. Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ, người có trí tuệ nhất định có giới hạnh”.

Như vậy, đạo đức Phật giáo luôn gắn liền với Giới - Định - Tuệ.

2.2. Phân loại đạo đức Phật giáo

- Đạo đức cá nhân

Người Phật tử cần xây dựng đời sống nội tâm dựa trên bốn nền tảng: Tín - Giới - Thí - Tuệ. Tức là tin sâu nhân quả, giữ giới không làm ác, thực hành bố thí để buông xả, và nuôi dưỡng trí tuệ để thoát khổ.

Trong kinh Pháp cú, Đức Phật dạy: “Không làm các điều ác, siêng làm các điều lành, giữ tâm ý trong sạch - ấy lời chư Phật dạy”. Đây là mô hình đạo đức cá nhân toàn diện, bắt đầu từ việc chế ngự thân - khẩu - ý và hướng về trí tuệ giải thoát.

- Đạo đức gia đình

Đức Phật dạy rất cụ thể về trách nhiệm trong gia đình, đặc biệt qua kinh Thi-ca-la-việt, với các mối quan hệ cha mẹ - con cái, vợ - chồng, chủ - tớ, bạn bè với nhau, thầy - trò...

Trong kinh này, Đức Phật dạy người con phải phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn truyền thống gia phong, làm rạng danh tổ tiên. Người chồng phải tôn trọng, chia sẻ việc nhà với vợ; người vợ phải trung thành và biết chăm lo gia đình. Những chỉ dạy ấy thể hiện rõ quan niệm đạo đức gia đình mang tính nhân bản, thiết thực, vượt thời gian.

- Đạo đức người Phật tử

Đạo đức người tại gia bắt đầu từ quy y Tam bảo và thọ trì ngũ giới. Đây là “nền đạo đức phổ quát” trong Phật giáo, giúp người cư sĩ sống thiện lành, an lạc giữa đời. Kinh Thiện Sinh nhấn mạnh ngũ giới là cách giúp cư sĩ sống có trách nhiệm với bản thân và xã hội: không sát sinh để nuôi dưỡng lòng từ, không trộm cắp để sống liêm chính, không tà hạnh để bảo vệ gia đình, không nói dối để tạo niềm tin, không uống rượu để giữ sự tỉnh thức. Ngoài ngũ giới, người có căn lành sâu dày còn phát nguyện giữ Bát quan trai giới, Thập thiện giới, hoặc xuất gia hành trì các giới tướng thanh tịnh như Sa-di, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.

- Đạo đức giải thoát

Giới luật không chỉ là khuôn phép mà con là phương tiện đưa đến tự do nội tâm. Trong kinh Tăng chi bộ, Đức Phật từng nói: “Có giới, có hộ trì, vị ấy không còn sợ hãi, hổ thẹn hay ăn năn”. Người giữ giới vững chãi sẽ cảm nhận được sự nhẹ nhàng và tự do thật sự - không đến từ bên ngoài, mà từ sự thoát ly nội kết, dứt bỏ tham ái. Ngay trong đời sống hằng ngày, một người cư sĩ biết sống tiết chế dục vọng, không đắm chìm trong hưởng thụ, biết buông bỏ sân hận... cũng đã là bước vào con đường giải thoát như lời Phật dạy: “Ái diệt là Niết-bàn”.

"Có giới, có hộ trì, vị ấy không còn sợ hãi, hổ thẹn hay ăn năn”
"Có giới, có hộ trì, vị ấy không còn sợ hãi, hổ thẹn hay ăn năn”

3. Ngũ giới

3.1. Định nghĩa về giới

Thông thường, giới được hiểu với nghĩa là “phòng phi chỉ ác”. Theo từ điển của Hội Pāli - Anh ngữ thì giới là thuật ngữ được dịch từ tiếng Pāli là sila. Sila vốn được bắt nguồn từ căn ngữ “sil”, có hai nghĩa: luân lý hay đạo đức và thiền định(3).

Còn giới trong giới bổn Patimokkha thì có nghĩa là biệt giải thoát, xứ xứ giải thoát, tùy thuận giải thoát, giải thoát. Ngoài ra, Patimokkha còn được hiểu là sự liên kết hay ràng buộc(4).

3.2. Ngũ giới - con đường đạo đức giữa đời thường

Trong đạo Phật, “giới” nghĩa là “phòng ngừa điều ác, nuôi lớn điều thiện”. Giới không phải là khuôn mẫu ràng buộc mà là phương tiện giúp người hành trì sống an lạc, tự tại và hướng thượng. Người Phật tử tại gia khi quy y Tam bảo thường phát nguyện thọ trì ngũ giới - năm nguyên tắc đạo đức căn bản để xây dựng đời sống tỉnh thức và nhân cách lành mạnh.

- Không sát sinh

Giữ giới này là nuôi dưỡng lòng từ bi, tôn trọng sự sống của mọi loài. Không giết hại, không làm tổn thương và cũng không cổ vũ hành vi bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào. Người giữ giới này biết sống yêu thương, biết trân trọng từng sự sống nhỏ bé quanh mình.

- Không trộm cắp

Giới này dạy về sự liêm chính. Không lấy những gì không phải của mình, dù là vật nhỏ hay lớn, của cá nhân hay tập thể. Mọi hình thức gian lận, lừa đảo, chiếm đoạt đều là vi phạm. Người giữ giới này sống trung thực, biết tôn trọng tài sản và công sức của người khác.

- Không tà dâm

Giới này hướng đến sự thủy chung và trách nhiệm trong quan hệ tình cảm. Tránh quan hệ ngoài hôn nhân, không xâm phạm hạnh phúc của người khác. Giữ giới này là gìn giữ phẩm hạnh và xây dựng mái ấm gia đình bền vững.

- Không nói dối

Giới này giúp thanh lọc khẩu nghiệp. Không nói sai sự thật, không đâm thọc, không dùng lời thô ác hay thêu dệt gây hiểu lầm. Lời nói chân thật là nền tảng của niềm tin và lòng từ. Người giữ giới này tạo ra không gian giao tiếp lành mạnh và đầy thiện ý.

- Không sử dụng chất gây nghiện

Không uống rượu, không sử dụng chất gây nghiện hay bất kỳ chất gì làm mất đi sự tỉnh táo. Giới này giữ cho tâm trí sáng suốt, kiểm soát được hành vi, tránh sa vào các lỗi lầm khác. Đây là giới nền để duy trì chánh niệm trong đời sống.

Giữ giới không phải là để trở thành “người tốt” trong mắt người khác, mà là giữ gìn tâm mình an tịnh, không bị lôi cuốn bởi tham - sân - si. Với người Phật tử tại gia, ngũ giới chính là chiếc thuyền giúp vượt qua biển khổ của khổ đau và vô minh, để sống một đời có ý nghĩa, nhẹ nhàng và trọn vẹn giữa cuộc đời nhiều bất an này.

3.3. Ứng dụng ngũ giới vào thực tiễn đời sống

a. Tinh thần đối với việc hành trì ngũ giới

Để ứng dụng ngũ giới vào trong thực tiễn cuộc sống hằng ngày thì điều quan trọng trước hết là cần phải có một kiến giải đúng đắn, không ngộ nhận về những giới điều cơ bản nhất này.

Nhiều người cho đến tận bây giờ, thậm chí là Phật tử tại gia đã trải qua lễ quy y Tam bảo và thọ trì ngũ giới rồi vẫn có cách nghĩ rằng, năm giới là những điều luật mang tính chất ràng buộc mang tính tôn giáo. Nhưng thật sự không phải như vậy, bởi lẽ, nếu nói như Aristote: “Hạnh phúc đồng nghĩa với đạo đức” thì “có thể nói rằng đạo Phật là đạo hạnh phúc”(5) vì giới chính là chuẩn tắc đạo đức của Phật giáo.

Vì vậy, những ai muốn đạt đến mục đích muôn thuở của loài người (chính là hạnh phúc) thì cần phải nắm giữ năm giới giống như con rồng ngậm giữ viên minh châu của mình vậy.

Năm giới thực chất là năm điều kiện đạo đức tối thiểu để tạo ra một con người theo đúng chân nghĩa. Hay nói cách khác, nội hàm của thuật ngữ “con người” chính là năm giới. Và do đó, năm giới là để sống ở trong đó như loài cá vốn sống trong nước, như chim vốn bay trên bầu trời, chứ đó không phải là một cái gì để chấp trước lấy và đau khổ bởi vì nó.

Con người sở dĩ luôn sống trong thế giới của khổ đau là bởi vì chưa nhận chân được thật tướng của vũ trụ nhân sinh. Thật tướng đó rốt cuộc là gì? Chính là bản thể “thanh tịnh - bình đẳng - giác”.

Thanh tịnh là thuộc tính của giới. Bởi vì một hành giả nếu nghiêm trì Thánh giới thì sẽ đạt đến đời sống phạm hạnh thanh tịnh:

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các giới luật hành trì toàn phần… vị ấy được xem là thanh tịnh(6).

Còn bình đẳng là thuộc tính của định, vì khi ở trong trạng thái của thiền định thì tất cả các phân biệt về cảm thọ được lắng xuống, đình chỉ. Hay nói cách khác, nhị biên ngay lúc đó không hiện hữu.

Còn giác là thuộc tính của trí tuệ. Hành giả khi đạt đến quả vị giác ngộ thì người ấy có đầy đủ tuệ giải thoát.

Như vậy, ở đây, ta có thể dễ dàng nhận ra rằng giới chính là yếu tố đầu tiên trong những thuộc tính của các pháp. Cho nên, Đức Phật thiết lập nên hệ thống giới luật, trong đó có ngũ giới chính là Ngài đã giúp cho hàng đệ tử trở về với chân như bổn tánh của mỗi người.

Vì vậy, hành trì giới luật nói chung và ngũ giới nói riêng chính là tìm lại chính mình, trở về với con người thật sự của chính mình. Ở đây hoàn toàn là tự nhiên và “như thị” mà không hề tồn tại bất kỳ một cái khái niệm tu tập để đạt được sự chứng đắc nào cả. Nếu có chăng đi nữa thì đó cũng chỉ là phương tiện thiện xảo để dẫn dắt chúng sinh mà thôi.

Ngoài ra, cần phải có một nhận thức nữa: Ngũ giới mà Đức Phật đã chế hoàn toàn không phải chỉ để dành riêng cho hàng đệ tử của Ngài, mà đó là mô phạm đạo đức cơ bản dành cho toàn nhân loại, cho những ai thật sự mong muốn có được một đời sống thiện lành, cao thượng và hạnh phúc chân thật. Bởi lẽ, chính Đức Thế Tôn đã khẳng định rằng:

Một người, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người. Người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác(7).

Như vậy, toàn bộ giáo pháp mà Đức Thế Tôn đã tuyên thuyết trong suốt 45 năm, trong đó có giới luật là hoàn toàn để cho con người áp dụng nhằm từng bước đạt đến các giá trị đạo đức Phật giáo từ thấp đến cao.

b. Ứng dụng ngũ giới vào đời sống

- Giới thứ nhất là tránh xa sát sinh

Tránh xa hay viễn ly sát sinh ở đây, như đã nêu ở phần trên là không được giết người, vật… Không những không được tự tay làm mà ngay cả khẩu và ý cũng không được tạo nghiệp sát sinh. Cho nên trong giới điều đầu tiên của Sa-di-ni luật nghi có dạy:

Không sát sinh là thế nào? Là giữ thân - miệng - ý. Thân thì không giết người, vật,… bằng cách không tự tay giết, không bảo người giết… Miệng thì không nói phải giết, phải hại, trả thù… Ý cũng không nghĩ…(8).

Bên cạnh đó, còn phải “thương mọi chúng sinh như xương tủy của mình, như cha mẹ, như con cái, như bản thân, không khác chi cả. Nhất tâm thương xót chúng sinh một cách phổ cập, bình đẳng, và thường đặt chí nguyện vào Đại thừa, đó là giới phải học tập đầu tiên của Sa-di-ni(9).

Như vậy, giới điều không sát sinh của Phật giáo bao gồm cả sự không não hại và phải sinh khởi lòng từ bi. Cho nên ở trong kinh Hiền ngu, Đức Thế Tôn có đề cập đến câu chuyện tiền thân của Ngài là tiên nhân Sằn-đề, vị tiên nhân chuyên tu hành hạnh nhẫn nhục. Ngài bị Ca-lợi vương cắt xẻ thân thể nhưng không hề sinh tâm oán hận và khởi niệm báo thù. Ngài không những không có ý niệm sẽ sát hại trở lại vị vua này mà còn phát ra một lời nguyện rằng, khi Ngài thành Phật, người đầu tiên mà Ngài tế độ chính là Ca-lợi vương. Vì vậy, sau khi thành đạo dưới cây Bồ-đề với hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Thế Tôn đã đến vườn Lộc Uyển ở Vārāṇasī để độ năm anh em Tôn giả Kiều Trần Như. Và Ngài Kiều Trần Như - hậu thân của Ca-lợi vương ngày trước - đã trở thành vị đệ tử đắc pháp đầu tiên(10).

Ngày nay, một bộ phận Phật tử thọ trì ngũ giới do chưa thể hội được toàn bộ tinh thần của giới luật nên trong phần hành trì gặp phải nhiều khiếm khuyết vô cùng đáng tiếc. Trên thực tế, có rất nhiều người học Phật nhưng không đạt được lợi ích, cho đến lúc lâm chung vẫn chẳng thể biết rõ nguyên nhân của vấn đề. Phật giáo chú trọng đến thực chất, còn hình thức là tùy duyên. Nếu chỉ thực hành giới không sát sinh ở bên ngoài mà trong tâm luôn ôm lòng não hại, hơn thua, được mất; không thể phát khởi được tâm từ bi, thương yêu và hộ sanh, mà chỉ đem lại sự sợ hãi và bất an cho chúng sinh thì thực sự đã không giữ gìn được giới này một cách trọn vẹn.

Từ đây mà suy thì niệm niệm cần giúp đỡ chúng sinh, niệm niệm đem lại lợi ích cho chúng sinh, không khởi tâm cản trở hay chướng ngại. Cho nên, trong đời sống thường ngày nên luôn luôn tự cảnh tỉnh và nỗ lực suy ngẫm về giáo pháp để có thể đem những khuyết điểm vi tế của bản thân mà chấn chỉnh lại. Đây mới chính là tu hành chân chánh.

- Giới thứ hai là tránh xa trộm cắp

Trộm cắp trong giới luật gọi là “bất dữ thủ”, tức là lấy của không cho. Vật này có chủ, chủ nhân không đồng ý mà cố lấy làm của riêng bằng nhiều phương pháp, hoặc tạm thời sử dụng, hoặc chỉ thay đổi vị trí cũng đã phạm vào giới trộm.

Của cải ở đây có khi chỉ là cỏ cây hoa lá mà ta tưởng như mọc hoang ngoài đường, trong rừng, nhưng thực tế chúng cũng có chủ. Đó là thần núi, thần cây… Cho nên trong luật Đức Phật dạy, phàm muốn chặt cây cao bằng đầu người trở lên thì trước đó ba ngày phải đi cúng tế và trình bày lý do mình muốn chặt cây để mời thần cây dời nhà. Nếu không làm như vậy thì phạm tội trộm cắp.

Ngày nay, chúng ta lên lớp học hay đến cơ quan làm việc mà trễ nãi giờ giấc thì cũng đã nằm trong phạm vi của giới trộm cắp này. Vì vậy, phạm vi của giới trộm là rất rộng và vô cùng vi tế.

Ngoài ra, giới trộm cắp nếu trình bày một cách cho dễ hiểu, gần gũi và tế nhị nhất thì đó chính là chiếm phần lợi của người khác, muốn giành hơn người khác. Nếu làm những việc như thế thì cái lợi có được chẳng bao nhiêu mà tổn thất thì quá lớn, bởi vì nó đánh mất đi nhân cách cao thượng và làm chướng ngại cho đạo nghiệp của chính mình. Cho nên, niệm niệm là giúp đỡ người khác, không tranh giành những danh vọng lợi dưỡng, mọi lúc mọi nơi luôn tôn trọng tất cả mọi người. Vì vậy, sống trong xã hội, khi bị người khác giành đi phần lợi ích của mình thì nên quán nghĩ rằng đó cũng như một nhân duyên tốt để hành giả thực hành hạnh bố thí.

- Giới thứ ba là tránh xa tà hạnh

Tà hạnh ở đây là chỉ quan hệ bất chánh ngoài giá thú. Trong xã hội hiện nay, quan hệ nam nữ trước hôn nhân hoặc ngoài giá thú gần như đã trở nên phổ biến.

Trước đây, khi hai người nam nữ kết hôn, mục đích chính là để có người kế thừa, tiếp nối dòng dõi, đảm bảo cho việc duy trì sự tồn tại xã hội. Cho nên, hôn nhân của mỗi người luôn gắn liền với trách nhiệm đối với gia đình, và rộng hơn nữa là nghĩa vụ đối với thế giới nhân sinh. Họ đến với nhau không phải hoàn toàn chỉ vì tình cảm riêng tư. Và vì vậy, vợ chồng sống với nhau bằng đạo nghĩa. Câu nói “Phu thê tương kính như tân” (Vợ chồng tôn kính nhau như khách) đã toát lên được tinh thần cốt tủy cũng như thấm đẫm tinh thần nhân văn sâu sắc của hôn nhân theo quan niệm truyền thống.

Trước đây, trong Lễ ký, Đức Khổng Tử từng dạy rằng: “Ẩm thực, nam nữ: nhân chi đại dục tồn yên”. (Việc ăn uống và tình cảm nam nữ là cái dục lớn của con người để duy trì sự tồn tại). Nói như vậy không có nghĩa là ngài cổ xúy cho sự tham đắm, hưởng thụ, mà ý muốn nói rằng hai điều này vốn thuộc về bản năng của con người, là khái niệm “câu sinh chủng tử” nếu hiểu theo tinh thần của Phật giáo. Đây chính là hai yếu tố cần thiết để đảm bảo sự tồn tại của con người chứ không phải để đắm chìm trong đó. Vì vậy, cần phải có sự nhận thức đúng đắn cũng như những biện pháp hữu hiệu để câu thúc bản thân, giúp cho con người không bị xuôi theo dục vọng. Do đó, giới luật của Phật giáo, trong đó có giới không tà hạnh chính là phương tiện thiện xảo để thực hiện chức năng, nhiệm vụ này.

Từ xưa đến nay, sự thiếu chung thủy là nguyên nhân chính yếu nhất dẫn đến sự đổ vỡ của một gia đình. Gia đình giống như một tế bào của cơ thể, và vợ chồng chính là hạt nhân của tế bào ấy. Nếu vợ chồng bất hòa, đổ vỡ thì cái nhân tế bào này đã bị hỏng rồi. Tế bào hỏng sẽ khiến cho toàn cơ thể bị bệnh. Gia đình ly tán thì tất cả các thành viên đều rơi vào bất hạnh và khổ đau. Hơn nữa, gia đình là tế bào của xã hội. Tế bào này hỏng thì xã hội làm sao mà không loạn động, thế giới làm sao có được thái bình? Ngày nay, dựa vào sự thống kê, chúng ta thấy rằng tỷ lệ ly hôn rất cao. Chính điều này có quan hệ rất lớn đến sự ổn định chung của toàn thế giới. Vì vậy, người Phật tử tại gia nên cẩn thận giữ gìn giới điều này.

- Giới thứ tư là tránh xa sự nói dối

Nói dối là nói lời không chân thật để lừa gạt người khác. Đây là giới điều rất dễ phạm phải. Nhiều người biện minh rằng, đó chẳng qua chỉ vì bảo vệ lợi ích của chính mình, nhưng họ lại không biết rằng có một quan niệm về mình, về sở hữu của mình, Phật giáo gọi đó là tà kiến. Tà kiến là một bất thiện pháp. Cho nên, bảo vệ lợi ích của chính mình, nói thẳng ra là bao che cho sự bất thiện của chính mình. Một người chân thật thông minh, thật có trí tuệ sẽ không bao giờ tích lũy ác pháp. Bởi vì ác pháp càng chất chứa thì khổ não càng dữ dội, không chỉ trong tương lai mà ngay trong hiện tại và tại đây.

Giới nói dối còn bao gồm không lưỡng thiệt, tức là không xúi giục, thị phi, làm hỗn loạn hai bên.

Trong lịch sử Trung Quốc, người tiêu biểu cho sự vi phạm giới này, có lẽ mọi người đều biết đến, đó là Tần Cối thời nhà Tống. Ông là người chuyên dùng lời nói hai chiều để khiêu khích, ly gián ân nghĩa cũng như làm mất đi niềm tin giữa các triều thần, vua tôi. Về sau, Tống sử liệt kê ông vào hạng gian thần. Người Hán xem Tần Cối là kẻ phản bội, phục vụ cho ngoại bang.

Từ bài học này, chúng ta ý thức được rằng, tội lưỡng thiệt đặc biệt nặng. Y theo luật nhân quả thì tội này sau khi chết phải đọa vào địa ngục kéo lưỡi.

Ngoài ra, giới nói dối còn bao hàm cả việc không ác khẩu, tức là không nói lời thô lỗ. Hiểu theo nghĩa bình thường là không nói năng thiếu lịch sự, thiếu nhã nhặn.

Điều này chính là biểu hiện của sự tu dưỡng bản thân. Hay nói cách khác, đó là lời nói của một người có giáo dục, có học vấn chân thật.

Người ác khẩu là người đối với tha nhân không có lịch sự, đối với sự việc thì rất thô lỗ, đối với chúng vật thì hoàn toàn không có tâm kính trọng. Đây đều là biểu hiện của tập khí phiền não hiện tiền. Cho nên, ác khẩu không những khiến bản thân người đó tự làm mất đi giá trị nhân cách của mình mà còn làm tổn thương người khác, tổn thương xã hội. Vì vậy thời xưa, khi dạy học, Đức Khổng Tử đã theo trình tự sau: đức hạnh, ngôn ngữ, chính sự, văn chương. Ngôn ngữ thuộc nhóm ưu tiên thứ hai. Còn trong Phật giáo thì thanh minh, tức ngôn ngữ là môn học đứng đầu của ngũ minh. Điều này thể hiện rất rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ.

Cho nên, người Phật tử thọ trì năm giới rồi thì nói năng nhất định phải biết đúng mực, phù hợp với hoàn cảnh, nhân sự, lời nào nên nói và lời nào không nên nói cần nhận thức một cách rõ ràng.

Điều cuối cùng trong giới thứ tư này là không ỷ ngữ. Ỷ ngữ là nói lời ngon ngọt, nói trau chuốt, thêu dệt, bay bướm, khuyến khích chúng sinh tạo bất thiện nghiệp. Sau này, các Tổ thay ỷ ngữ bằng phiếm ngữ, là nói phiếm, nói lời vô nghĩa.

- Xa lìa việc uống rượu

Rượu làm cho tâm người mê loạn, hoại giống trí huệ. Uống vào sẽ bị điên đảo, hôn cuồng, làm chuyện càn quấy, dễ phạm cả bốn giới trọng ở trên, nên Phật chế định người tu hành trọn chẳng được uống rượu.

Tuy nhiên, đây là già giới, cho nên, trong một số trường hợp cần thiết, có thể sử dụng rượu mà không bị phạm giới, như dùng rượu làm thuốc để chữa bệnh, hoặc làm gia vị cho món ăn…

Người đã từng được tiếp nhận nền giáo dục Nho gia hẳn phải học đến Lễ ký. Học Lễ ký thì không thể không biết đến Trịnh Huyền, tức Trịnh Khang Thành, người chú giải Lễ ký. Ông rất thông minh, là đệ tử chân truyền của Mã Dung, một cự Nho thời nhà Hán. Tuy vậy, Mã Dung, người thầy này biết được rằng học trò của mình sau này nhất định sẽ có sự nghiệp vượt qua mình nên sinh tâm đố kỵ và muốn sát hại. Trịnh Khang Thành biết được điều này, nên sau khi việc học tập đã thành tựu, liền lập tức ra đi.

Trong buổi lễ chia tay, người thầy dẫn theo 100 học trò để tiễn Trịnh Khang Thành, mỗi người kính ông ba chén rượu. Tổng cộng, Trịnh Khang Thành đã uống hết 300 chén. Sự thật là Mã Dung muốn chuốc cho ông say để dễ bề làm hại. Tuy vậy, ông không say, ngay cả một lễ tiết nhỏ cũng không vi phạm.

Mã Dung còn thuê một sát thủ để giết hại Trịnh Khang Thành trên đường đi, nhưng Trịnh Khang Thành thông minh, ông biết được nên chuyển sang con đường tắt khác để đi, nhờ đó mà bảo toàn được tính mạng. Về sau, sự nghiệp quả có thành tựu lớn, vượt qua cả thầy.

Cho nên, rượu thuộc về già giới, nó không phải tánh tội. Khi rượu được sử dụng không đủ lượng để khiến con người bị say mê, hay mất tinh thần hoặc không làm chủ được bản thân thì không có lỗi. Vì vậy, tùy trường hợp đặc biệt mà giới này được khai ra mà không phạm.

Tuy vậy, nếu đã là người Phật tử thọ trì cấm giới của Đức Phật thì không nên phạm vào giới này, không nên uống rượu dù chỉ thấm môi, đó chính là giữ gìn giới hạnh được thanh tịnh, tròn đầy vậy.

4. Kết luận

Tóm lại, qua việc tiếp cận ngũ giới dưới góc nhìn đạo đức Phật giáo, có thể thấy đây không chỉ là hệ thống giới luật để hành trì mà còn là nền tảng đạo đức toàn diện. Ngũ giới vừa xác lập giới hạn hành vi, vừa định hình đức hạnh cá nhân, nuôi dưỡng lòng từ và thúc đẩy tinh thần vị tha, dấn thân vì cộng đồng.

Với người Phật tử tại gia, thực hành năm giới không chỉ là giữ giới cho riêng mình, mà còn là một hình thức sống đẹp giữa đời. Đó là cách chuyển hóa bản thân, đồng thời lan tỏa giá trị đạo đức đến gia đình và xã hội.

Ở tầng sâu hơn, ngũ giới cũng chính là năm điều kiện căn bản để làm người, là phần nội hàm cốt lõi của nhân cách con người theo quan điểm Phật giáo. Khi một người giữ được năm giới, tức là đang bước đi trên con đường hoàn thiện chính mình, và cũng đang góp phần gieo những hạt giống Tịnh độ giữa nhân gian.

‐---------------------------------

(1)Tham khảo từ TT.Thích Viên Trí, Đề cương môn học: Tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy,tài liệulưu hành nội bộ, tr.31, 32.

(2)Trần Tuấn Mẫn, Đạo đức học của giải thoát, https://thuvienhoasen.org/a8565/dao-duc-hoc-phat-giao, đăng ngày 4-1.2011.

(3)Viên Trí, Ý nghĩa giới luật,NXB.Hồng Đức, 2019, tr.28.

(4)Viên Trí, Sđd., tr.29, 30.

(5)Viên Trí, Sđd., tr.105

(6)Đại tạng kinh Việt Nam, HT.Thích Minh Châu (dịch), Tăng chi bộ kinh, 1996, tập 1, tr.420, 421.

(7)Đại tạng kinh Việt Nam, HT.Thích Minh Châu (dịch), Tăng chi bộ kinh, 1996, tập 1, tr.46.

(8)Trí Quang (dịch), Luật tiểu, NXB.Tôn Giáo, 2009,tr.180

(9)Trí Quang (dịch), Sđd.

(10)Dẫn theo HT.Tuyên Hóa, A-nhã Kiều Trần Như và công án “Vua Ca-lợi và Tiên Nhẫn Nhục”, trích từ Kinh Pháp hoa lược giảng, https://quangduc.com/a27587/vua-ca-loi-va-tien-nhan-nhuc, số đăng ngày 13-11-2010.

Tài liệu tham khảo

Đại tạng kinh Việt Nam (1996), HT.Thích Minh Châu (dịch), Tăng chi bộ kinh, tập 1.

Trí Quang (dịch), (2009), Luật Tiểu, NXB.Tôn Giáo.

HT.Tịnh Không, Phật thuyết thập thiện nghiệp đạo kinh giảng giải, (2019), tập 1, NXB.Hồng Đức.

Viên Trí, Ý nghĩa giới luật, (2019), NXB.Hồng Đức.

Thích Viên Trí, Đề cương môn học: Tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy, tài liệu lưu hành nội bộ.

6. HT.Tuyên Hóa, A-nhã Kiều Trần Như và công án “Vua Ca-lợi và Tiên Nhẫn Nhục”, trích từ Kinh Pháp hoa lược giảng, https://quangduc.com/a27587/vua-ca-loi-va-tien-nhan-nhuc, số đăng ngày 13-11-2010.

Trần Tuấn Mẫn, Đạo đức học của giải thoát, https://thuvienhoasen.org/a8565/dao-duc-hoc-phat-giao, đăng ngày 4-1-2011.

(NSGN - 355)

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Ảnh minh họa

Bức tường màu xanh

GNO - Chiều nào tan trường, Linh cũng dắt đám học trò đi qua con ngõ nhỏ để về. Bức tường cũ kỹ cuối ngõ xi-măng bong tróc lốm đốm, màu xám lem nhem pha lẫn vết rêu xanh đen. Lũ trẻ lướt ngang như đi qua một thứ gì đó đã quá quen thuộc, không ai để ý.

Thông tin hàng ngày