GN - Mùa Vu lan gợi nhắc người Phật tử nhớ đến người thân của mình đã qua đời là anh em, cha mẹ hiện tiền cho đến cửu huyền thất tổ. Phật tử thường tụng kinh, cúng dường, bố thí để hồi hướng cho chư vị hương linh được siêu sanh Tịnh độ. Ngoài ra, còn có truyền thống báo hiếu tốt đẹp, quen thuộc với Phật tử, được thể hiện dưới hình thức đền đáp bốn ơn là ơn tổ tiên, ơn Tam bảo, ơn đồng bào, ơn đất nước.
Đức Phật đã trải qua sự tu tập hồi hướng theo tinh thần
Hoa nghiêm và đạt đến Vô thượng Đẳng giác - Ảnh minh họa
Đạo đức hiếu hạnh dưới hai hình thức hồi hướng nói trên phù hợp với nếp sống truyền thống của dân tộc Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn”, cũng như phù hợp với giáo lý đạo Phật. Tuy nhiên, vượt cao hơn hai sự hồi hướng nói trên là sự hồi hướng theo tinh thần kinh Hoa nghiêm.
Thật vậy, sự hồi hướng, hay nói cách khác, mọi nỗ lực dồn tất cả tâm sức của chúng ta sẽ đạt được mục tiêu cao tột, lợi ích nhất, nếu chúng ta biết thể hiện sự hồi hướng dựa trên nền tảng của kinh Hoa nghiêm; vì kinh này tiêu biểu cho đỉnh cao của tuệ giác Như Lai. Và ý nghĩa chân thật của pháp tu hồi hướng được diễn tả trọn vẹn trong phẩm Thập hồi hướng của kinh Hoa nghiêm được triển khai dưới ba dạng là hồi hướng Pháp giới chúng sanh, hồi hướng Vô thượng Bồ-đề và hồi hướng Chơn như thật tướng.
1- Hồi hướng Pháp giới chúng sanh
Chúng sanh chỉ cho các sinh vật từ hình dáng cho đến sinh hoạt và tâm tưởng đều hoàn toàn khác biệt. Vì không giống nhau, nên gọi là “chúng”, nói chung là chúng sanh, hay chúng hữu tình. Ở đây chúng ta giới hạn Pháp giới chúng sanh trong phạm vi của loài người mà thôi.
Theo Phật dạy, con người hiện hữu do nhân duyên kết hợp ngũ uẩn mà thành, gồm có sắc uẩn là yếu tố vật chất và thọ, tưởng, hành, thức là yếu tố tinh thần. Đức Phật tuy cũng mang thân ngũ uẩn như chúng ta, nhưng Ngài đạt quả vị Toàn giác, vì Ngài biết nương theo sự thay đổi không ngừng của ngũ uẩn để tu tập. Qua một quá trình điều chỉnh thân tâm, kết hợp được sức mạnh vật lý và tâm linh của ngũ uẩn thân, Ngài có được thân vật chất đầy đủ tướng hảo và tinh thần hoàn toàn minh mẫn. Trái lại, chúng sanh muôn đời khổ đau trong tử sanh luân hồi, vì luôn buộc chặt thân ngũ uẩn của mình bằng sợi dây tham dục và vô minh tà kiến. Như vậy, thế giới chúng sanh là thế giới cấu tạo hoàn toàn bằng tham dục và mê lầm của con người. Hiện hữu và sinh hoạt trong thế giới nhiều sai lầm này, chúng ta tu hồi hướng Pháp giới chúng sanh, nghĩa là đầu tư cho mọi người có một nhận thức đúng đắn, xa lìa tham vọng; vì chúng ta nhận chân được mọi xấu xa trên cuộc đời này đều phát sanh từ lòng dục vọng và ngu si.
Đức Phật dạy rằng: “Thế gian thiếu thốn, khát khao và bị nô lệ cho dục vọng”. Nói chung, tham dục là lòng tham không đáy, làm nhân phát khởi cho những hành động bất thiện, bồi đắp cho những quyền lợi ích kỷ cá nhân. Nó là nguồn gốc của mọi sự tranh giành, cướp bóc lẫn nhau, làm phát sanh hận thù và xung đột. Đó cũng là biểu hiện của vô minh, hay ngu si mê lầm, xây dựng không thật, đánh giá không đúng. Tất nhiên, chỉ chuốc lấy thảm bại, giống như người xây lâu đài trên cát. Nếu mãi chìm đắm trong mê lầm và tham vọng, sẽ đưa đến tình trạng tệ hại. Mọi người tự tranh chấp với nhau, đến độ tất cả đều rơi vào hố thẳm của sự cô lập hoàn toàn, không còn ai hoạt động được gì nữa. Kinh Pháp cú nói rõ về sự tai hại của các hành động bắt nguồn từ vô minh, tham sân si:
Không có lửa nào như lửa tham
Không có ngục tù nào như lòng sân
Không có lưới nào như vô minh
Không có dòng sông nào như ái dục.
Bước theo con đường Bồ-tát đạo, hành giả phải loại trừ những nhận thức mê lầm, gạt bỏ lòng tham ái và dục vọng ích kỷ. Được như vậy, mới trở thành người sáng suốt, hành động đúng đắn, hợp tình hợp lý trong mối quan hệ giữa ta và người, cũng như giữa ta và xã hội.
Hồi hướng cho Pháp giới chúng sanh, người Phật tử phải biết quên mình, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân vì lợi ích chung của xã hội và sẵn sàng giúp đỡ người bằng lòng từ bi, nỗ lực thực hiện những điều thiện. Phải biết sống “Vì mọi người” với ý thức sâu sắc rằng hạnh phúc an lạc của chính ta không thể tách rời hạnh phúc an lạc chung của xã hội; vì mọi người, vì xã hội đã hàm chứa đầy đủ ý nghĩa vì bản thân của chính mình. Thật vậy, theo Đức Phật dạy trên cuộc đời này, muôn sự muôn vật tương quan tương duyên chặt chẽ lẫn nhau. Mặc dù hạnh phúc an lạc tùy thuộc vào sự tu tập của riêng mỗi người, nhưng nó cũng chịu sự tác động của xã hội bên ngoài. Khi xã hội còn nhiều hiện tượng tiêu cực, tệ ác, thì hạnh phúc an lạc của mỗi người còn bị hạn chế và đe dọa. Do đó, những tồn tại tệ ác, xấu xa trong xã hội là mối quan tâm hàng đầu của Bồ-tát. Và hàng hàng lớp lớp Bồ-tát tu tập cũng nhằm thủ tiêu những sai trái mê lầm này.
Chúng sanh chưa phát tâm Bồ-đề càng nhiều, nó càng nhiễu hại ta. Vì thế, hồi hướng cho chúng sanh là hồi hướng cho chính ta; vì ta không thể tìm được sự yên thân, hạnh phúc bằng cách lo thủ phận cho cá nhân, hay thu mình trong phạm vi gia đình. Trái lại, phải tích cực đóng góp vào công trình chung, xây dựng phát triển xã hội; vì trong lợi ích chung của xã hội có lợi ích của bản thân mình. Và xa hơn nữa, dấn thân hành Bồ-tát đạo, chúng ta có trách nhiệm dìu dắt, nâng đỡ người bằng như ta. Đến khi mọi người thành Phật, ta mới thực sự đạt được quả Vô thượng Đẳng giác.
Cuộc đời của Đức Phật trong tám mươi năm trụ thế là tấm gương sáng thể hiện sự hoạt động không ngừng nghỉ, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chúng sanh. Và trước khi rời bỏ huyễn thân, Ngài còn nhắc nhở chúng ta rằng phục vụ chúng sanh là tối thượng cúng dường chư Phật.
2- Hồi hướng Vô thượng Bồ-đề
Vô thượng Bồ-đề là trí giác và Đức Phật đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn, gọi là đắc quả Vô thượng Bồ-đề. Chúng ta tu tập hồi hướng Vô thượng Bồ-đề nhằm dồn tất cả nỗ lực, tâm sức cho sự phát triển trí tuệ, hay tri thức. Từ đó, trang bị cho ta một phương pháp tư duy đúng đắn, đưa đến sự nhận thức sáng suốt, thấy biết tất cả một cách chính xác như Đức Phật.
Ý thức rằng đi trên lộ trình Phật đạo không gì khác hơn là con đường dẫn chúng ta đến vị trí sáng suốt hoàn toàn. Từng bước chúng ta sửa đổi nhận thức mê lầm thành hiểu biết sáng suốt. Đức Phật dạy rằng chúng ta và Ngài bình đẳng như nhau qua câu nói “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”. Mọi người đều có khả năng chuyển mê thành ngộ. Đức Phật khẳng định khả năng vô tận của trí tuệ, của nhận thức con người có thể nắm bắt được chân lý khách quan và tự mình giải thoát cho mình. Thật vậy, nếu dại khờ để cho tham vọng, phiền não, vô minh ngăn che thì tất cả vật xung quanh sẽ chi phối, ràng buộc ta, nhưng nếu biết rõ nguyên lý cấu tạo nên vật, chắc chắn sẽ chuyển đổi được vật. Thí dụ cát là vật chướng ngại không dùng được, nhưng khi trí khôn con người phát triển thì cát được chế tạo thành thủy tinh mang lại ích lợi cho con người.
Con người trong thời đại cổ sơ chưa văn minh, trí khôn chưa phát triển, bị thiên nhiên chi phối. Tuy nhiên, dần dần, người ta phát huy và vận dụng được trí năng vào việc chinh phục thiên nhiên thì cuộc sống con người tốt đẹp hơn. Quan niệm tiến hóa từ người lạc hậu thành người văn minh không khác quá trình tu tập của chúng ta. Phấn đấu chinh phục được thiên nhiên hiểu dưới dạng tu tập gọi là chinh phục được nghiệp và phiền não.
Trên lộ trình tu tập, chúng ta nhận thấy rõ Đức Phật đã thể hiện trọn vẹn ba phương cách phát triển trí tuệ là văn huệ (học), tư huệ (suy nghĩ) và tu huệ (áp dụng vào cuộc sống). Thật vậy, khi còn là thái tử, Đức Phật rất hiếu học, luôn mong mỏi trở thành con người vạn năng, thuần tịnh, nghĩa là Ngài chỉ khao khát trí tuệ và đạo đức. Sử ghi rằng năm Ngài 12 tuổi, không có thầy nào dám nhận dạy Ngài. Điều này nói lên sự thông minh tuyệt đỉnh của Ngài. Thông minh này dĩ nhiên nhờ kèm theo tánh hiếu học. Đức Phật đã phê phán tất cả triết thuyết có trước và đồng thời với Ngài, chứng tỏ Ngài đã học hỏi, nghiên cứu chúng một cách nhuần nhuyễn.
Sau khi học văn, Ngài học võ để rèn luyện cơ thể có sức chịu đựng. Nhìn rõ cuộc đời không còn gì đáng cho Ngài học, thái tử mới đi tu, để tìm một cái gì cao quý hơn nhân gian. Các bậc hiền triết nổi tiếng đều được Ngài tham vấn, nhưng Ngài vẫn còn nhiều nghi vấn, vì không ai hiểu biết hơn, không ai đáp ứng được nhu cầu khát ngưỡng giải thoát sanh tử của Ngài. Ngài đành rời bỏ họ. Ngài tự nghĩ dù theo họ đến chết cũng chẳng được lợi lạc gì. Vì thế, Ngài vận dụng sức khỏe và trí tuệ cho việc nắm bắt chân lý. Đó là giai đoạn sáu năm Ngài tu khổ hạnh, bốn mươi chín ngày thiền định dưới cội bồ-đề, dồn mọi nỗ lực cho việc tập trung tư duy để phát sanh tuệ giác. Giai đoạn này là tư huệ, Ngài suy nghĩ, kiểm nghiệm những gì đã học hỏi.
Sau khi trải qua quá trình ngồi dưới cây bồ-đề quán nhân duyên, thấy tất cả sự vật, Ngài mới tiếp tục giai đoạn ba, giai đoạn tu huệ; nghĩa là dấn thân hành Bồ-tát đạo. Suốt bốn mươi chín năm hành đạo của Đức Phật là quãng đời quan trọng mà Ngài đem gieo hạt giống Bồ-đề ở khắp mọi nơi. Đức Phật đến nơi nào giáo hóa đều thành công, vì Ngài thấy đúng, nói đúng, hành động đúng, chọn đúng đối tượng và đúng thời điểm giáo hóa.
Gợi nhắc sơ lại những điểm tiêu biểu của Đức Phật để thấy rằng chúng ta là người thừa kế của Ngài, thừa kế một trí tuệ siêu việt, một sự nghiệp cao quý chỉ đạo cho nhân loại hơn hai ngàn năm. Đức Phật để lại một kho tàng giáo lý phong phú, nhằm mục tiêu giúp mọi người phát triển tri thức và mang ứng dụng vào cuộc sống thì thân khỏe mạnh, tâm trí sáng suốt. Nhưng nếu chúng ta áp dụng sai lầm sẽ khiến cho thân trở thành bệnh hoạn và trí hiểu biết lụn dần. Tăng Ni cần ý thức sâu sắc rằng chúng ta đang tiến bước trên lộ trình Phật đạo, một con đường giác ngộ, hiểu biết chân chính. Người tu phải lấy trí tuệ làm sự nghiệp là thế; có trí tuệ thì có tất cả. Bằng mọi cách, phải phát triển tri thức và học vấn của mình. Trang bị vững chắc ý niệm cầu học, chúng ta an trụ trong thế giới tri thức để sống; không lo tranh chấp với người. Đạt được điều này, dù chưa thành Phật, cũng là bậc chân tu không còn hơn thua với đời, luôn tinh tấn phát triển tri thức để nhìn đời cho chính xác.
Siêng năng trau dồi đạo đức, phát huy trí tuệ bằng cách học rộng nghe nhiều, chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ. Vì biết nếu ngừng lại, trong khi các bậc Hiền thánh đang thăng hoa, xã hội đang đi lên, ta sẽ trở thành lạc hậu, tự đào thải mình và tự sát. Cần lưu ý rằng học để biết, nhưng không phải biết để vướng mắc trong sở tri chướng. Biết để phiền não thì không nên biết. Biết để tăng trưởng trí tuệ, tăng trưởng tri thức, không còn pháp nào trên thế gian này chướng ngại ta, thấy sự việc gì chúng ta cũng biết rõ từ nguyên nhân đến kết quả.
Trên tinh thần tiếp thu đúng đắn trí tuệ Như Lai, các bậc danh tăng tiền bối đã vận dụng giáo pháp vào việc thăng hoa cuộc sống ích nước lợi dân. Các ngài đã giúp cho Phật giáo Việt Nam gần hai ngàn năm được quý trọng như ánh sáng soi đường, luôn luôn thể hiện truyền thống tốt đẹp “Hộ quốc an dân”.
3- Hồi hướng Chơn như thật tướng
Nhờ tu hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, Đức Phật đạt đến sự thấy biết chính xác và dùng trí này rọi vào vật. Ngài quan sát nó dưới dạng thể tánh của sự vật, thấy được sự tồn tại của muôn loài qua tiến trình của mười trạng thái khác nhau, gọi là Thập Như thị. Ở giai đoạn trước còn tu pháp tương đối, nhưng đến giai đoạn hồi hướng Chơn như thật tướng, an trú trong tuyệt đối hay trong thể tánh của sự vật, thấy được mọi vật đồng nhất thể và điều động mọi vật dưới dạng thực thể. Trên căn bản này, Đức Phật hành đạo trong tư thế vô công dụng đạo. Ngài vượt qua mọi sự chống đối, khó khăn, chướng ngại, mà vẫn không rời bỏ bản vị tự tại, giải thoát.
Khi tu, chúng ta phân ra ba phần hồi hướng riêng biệt, nhưng sự thật là thực hành một hạnh đã tác dụng cho hai hạnh kia; vì cả ba pháp hồi hướng nói trên hỗ tương chặt chẽ với nhau.
Thật vậy, hàng Thanh văn tu thoát ly sanh tử để tìm Bồ-đề. Nhưng Đức Phật dạy Bồ-tát nếu bỏ chúng sanh đi tìm Bồ-đề, không khác gì tìm lông rùa sừng thỏ; vì sự hiểu biết của chúng ta phải phát xuất từ quá trình hành đạo. Nói cách khác, trí phát sanh do cọ xát với đời. Đâu có gì trên cuộc đời không phải là chỗ giác ngộ. Nếu chúng ta rời bỏ hiện thực này sẽ rớt qua không tưởng. Đây là ý niệm chúng ta cần để tâm suy nghĩ, xa rời thực tế sẽ không thấy đạo. Đạo ở ngay trước mặt, ngay trong lòng chúng ta. Đức Phật dạy trong kinh Hoa nghiêm rằng Bồ-đề ở nơi chúng sanh. Chúng sanh càng cang cường, Bồ-tát càng mau đắc đạo. Nếu không có chúng sanh, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền não thì Bồ-tát không thể thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Vì thế, nhìn thấy chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền não, Bồ-tát sẵn sàng nhập cuộc để phát triển tài năng, tích lũy công đức.
Khi tu Bích chi Phật, thấy chính xác; nhưng theo tinh thần Hoa Nghiêm, đó chỉ là cái thấy trên lý thuyết, có được nhờ học với Phật, nghe và ghi nhận. Giống như học xong, lãnh bằng về treo, không trực tiếp làm việc thì trí bị lụt dần, hiểu biết chuyên môn cũng dở lần, đến lúc không dùng được. Trong khi hiểu biết của Bồ-tát thì khác hẳn. Bồ-tát có được Đạo chủng trí nhờ dấn thân vào đời. Trên bước đường tu, thân tâm luôn chạm trán với những điều kiện thuận nghịch, mới phát hiện được chân lý, nghĩa là thấy được sự thật của cuộc đời. Vì thế, càng tiếp cận chúng sanh, trí tuệ càng phát triển, hiểu biết càng chính xác.
Khởi đầu tu Bồ-tát đạo, trí tuệ chúng ta từ từ phát sanh, như người mới hành nghề chỉ chữa những bệnh dễ. Và đến lúc không còn bệnh nào không chữa được, thì đạt đến quả vị Vô thượng Bồ-đề là hiểu biết cùng tột. Do đó, lo cho chúng sanh và xã hội tốt đẹp đồng nghĩa với tự phát huy Vô thượng Bồ-đề. Điều đó cũng có nghĩa rằng hồi hướng chúng sanh chính là hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Và ngược lại, trong khi tu hồi hướng Vô thượng Bồ-đề chính là hồi hướng chúng sanh, vì chúng ta nỗ lực phát triển tri thức đến mức hoàn toàn đúng thì người mới theo học hỏi và chúng ta mới mang lại lợi ích cho họ được.
Ngoài ra, hồi hướng Vô thượng Bồ-đề là hồi hướng Chơn như thật tướng, hoặc hồi hướng Chơn như thật tướng là hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Vì nhờ có trí vô thượng quan sát, cảnh chơn như hay Pháp giới mới hiện ra. Trái lại, nhờ cảnh chơn như làm duyên cho trí mà trí giác Bồ-đề phát triển thêm lên. Và trí giác Bồ-đề càng phát triển thì kiến tạo cảnh chơn như càng tốt hơn. Lấy thí dụ dễ hiểu, nhờ trí hiểu biết, chúng ta xây dựng được căn nhà. Và khi hoàn thành rồi, chúng ta quan sát lại căn nhà, thấy được chỗ hay dở của nó mà sanh ra nhận thức mới.
Hai phần trí Bồ-đề và chơn như phản chiếu qua lại, tạo thành một thế giới thuần lý, hoàn toàn cách biệt cuộc sống thực tiễn, chưa có tác dụng hữu ích cho chúng sanh. Chúng ta phải hồi hướng Pháp giới chúng sanh, nghĩa là truyền trao hiểu biết vô thượng cho mọi người, để họ sử dụng được quy luật như ta. Đến khi mọi người đều thành Phật, thì công hạnh của chúng ta mới hoàn tất. Trí Bồ-đề và Chơn như thật tướng có thể ví như phát minh còn ở trong phòng thí nghiệm. Và hồi hướng cho chúng sanh là đưa phát minh này ra thực tế, sản xuất cho người tiêu dùng, mới thực sự có lợi ích.
Tóm lại, hồi hướng Pháp giới chúng sanh, hồi hướng Vô thượng Bồ-đề và hồi hướng Chơn như thật tướng tác động hỗ tương lẫn nhau, quyện làm một, tạo thành Đức Phật tiêu biểu trên cuộc đời. Chính Đức Phật Thích Ca là người đã kết hợp nhuần nhuyễn ba pháp hồi hướng này.
Khởi tu từ thân tứ đại ngũ uẩn như chúng ta, Đức Phật tu tập, trải qua một quá trình sửa đổi thân tâm đến điểm cao nhất là Thành đạo dưới cội bồ-đề. Bừng lên trí giác Vô thượng, Ngài thấy rõ chân lý tồn tại khách quan thường hằng và phổ biến trong không gian, thời gian. Từ vị trí của bậc sáng suốt thấy biết muôn sự muôn vật đúng như thật dưới dạng chơn tánh, Đức Phật khởi tâm đại bi, Ngài trở lại thế giới hiện tượng sai biệt của loài người. Ngài dùng tuệ giác rọi vào cuộc đời, triển khai vô số phương tiện cứu độ chúng sanh. Tùy theo căn cơ, trình độ, khả năng không đồng, Phật giảng nói trăm vạn pháp môn, để mọi người có thể hiểu được, chấp nhận được quy luật thường hằng bất biến. Sau cùng, Ngài đưa tất cả mọi người xa rời bến mê, trở về bờ giác.
Đức Phật đã trải qua sự tu tập hồi hướng theo tinh thần Hoa nghiêm và đạt đến Vô thượng Đẳng giác, Ngài mới đền đáp dễ dàng và trọn vẹn bốn ơn. Vì thành tựu hồi hướng Pháp giới chúng sanh đã bao hàm đầy đủ sự báo hiếu bốn ơn. Và thành tựu hồi hướng Vô thượng Bồ-đề cùng hồi hướng Chơn như thật tướng thì không những người thân như cha mẹ, anh em mà Đức Phật tế độ được đắc quả, mà cả người oán tiêu biểu nhất là Đề Bà Đạt Đa cũng thành Phật. Vì vậy, thể hiện tinh thần báo hiếu cao tột, trọn vẹn, đầy đủ ý nghĩa nhất của lễ Vu lan chính là sự tu tập hồi hướng theo kinh Hoa nghiêm qua ba phương cách đã nêu trên.
Ngày nay, bước theo dấu chân Phật, chúng ta cố gắng kết hợp hài hòa ba pháp hồi hướng nói trên. Chúng ta phát huy tam vô lậu học giới, định, tuệ, để có nhận thức sáng suốt. Từ đó, dấn thân vào hoạt động có lợi ích chung, xây dựng cho mọi người cùng an vui, hiểu biết trong ánh sáng từ bi, trí tuệ, giải thoát của Đức Từ Tôn.