Thái tử Tất-đạt-đa đã từ bỏ tất cả để tìm kiếm chân lý và cuối cùng Ngài đã đạt được sự giác ngộ, chứng quả vị Phật. Điều này cho thấy Đức Phật là một con người vĩ đại, hành trình buông bỏ và giác ngộ của Ngài để lại vô số bài học giá trị cho nhân loại.
Trước khi xuất gia, Đức Phật là một thái tử, sinh ra và lớn lên trong cảnh giàu sang, với cuộc sống đầy đủ về cả vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, những lần dạo chơi ngoài thành Ngài đã chứng kiến cảnh già, bệnh, chết và gặp một vị Sa-môn. Từ đó, Ngài quyết tâm từ bỏ tất cả để tìm kiếm sự giải thoát khỏi khổ đau.
Điều đầu tiên cần nói đến là sự từ bỏ phi thường của Ngài khi còn sống trong hoàng gia. Thái tử Tất-đạt-đa đã rời bỏ cung điện, ngai vàng, gia đình, vợ con và những dục vọng vật chất của thế gian. Đây là một việc khó làm, vì người đời thường mưu cầu danh vọng và lợi ích, đôi khi bất chấp cả đạo lý. Ngược lại, Ngài đã vượt qua những ham muốn tầm thường đó và quyết tâm từ bỏ tất cả để theo đuổi mục tiêu cao cả, giác ngộ và giải thoát. Sự từ bỏ ấy đã thể hiện sự cao thượng vô biên của Ngài.
Trong kinh Tịnh bất động đạo (Trung A-hàm, số 75), Đức Phật dạy rằng: “Dục là vô thường, hư ngụy, giả dối. Đã là pháp giả dối thì huyễn hóa, khi cuống, ngu si. Dầu là dục của đời nay hay là dục của đời sau, tất cả đều là cảnh giới của ma, là miếng mồi của ma. Nhân những thứ ấy mới sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện, tham lam, sân nhuế và đấu tranh, làm chướng ngại cho sự tu học của Thánh đệ tử”. Tất cả dục và sắc trong hiện tại, vị lai đều là cảnh giới của ma, là mồi của ma, là chất nuôi dưỡng của ma, là lĩnh vực của ma. Bởi con người không những muốn hưởng dục đời này mà còn mong muốn hưởng dục cả đời sau. Hoặc cũng có người nhàm chán dục hiện đời nhưng lại mong ước hưởng dục đời sau, như vậy con đường sinh tử mãi mãi không dừng. Những thứ ấy là căn bệnh đã khiến cho hàng đệ tử Phật gặp nhiều trở ngại.
Trong quá trình học đạo và tu hành với hai vị thầy nổi tiếng nhất Ấn Độ thời bấy giờ là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta, Sa-môn Cù-đàm đã đạt được tất cả những gì mà hai vị thầy chứng đắc. Tuy nhiên, những thành tựu đó vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu ban đầu của Ngài, đó là tìm kiếm sự giải thoát hoàn toàn. Vì vậy Ngài quyết định tiếp tục ra đi, kiên định chinh phục mục tiêu cao nhất của mình. Điều này cho thấy hành trình của Đức Phật luôn có mục tiêu rõ ràng và chỉ dừng lại khi đạt được mục tiêu cuối cùng. Trong kinh Bất động lợi ích (Trung bộ, số 106) Đức Phật dạy: “Ở đây, này Ananda, một vị Tỷ-kheo hành trì như vậy và suy nghĩ: Nếu trước không có như vậy thời có thể không là của Ta. Nếu nay không có như vậy, thời có thể không là của Ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những gì đã có. Và như vậy vị ấy được xả. Vị ấy hoan hỷ trong xả ấy, hoan nghênh, chấp trước xả ấy, thức lệ thuộc xả ấy và thủ trước xả ấy. Có thủ trước, này Ananda, vị Tỷ-kheo không chứng cứu cánh Niết-bàn. Bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo ấy thủ trước là thủ trước chỗ nào? Này Ananda, Phi tưởng phi phi tưởng xứ”.
Tuy Phi tưởng phi phi tưởng xứ là định cao nhất trong bát định nhưng chưa phải là cứu cánh Niết-bàn. Bởi vì còn yêu mến chấp giữ trong ấy, còn giữ một niệm xả là chưa thể đạt đến cứu cánh. Tóm lại trong hai loại định mà Đức Phật đã thành tựu từ hai vị thầy Alara Kalama và Uddaka Ramaputta vẫn còn có những niệm tưởng vi tế, những tưởng đó là pháp vô thường, là khổ, là sanh diệt. Nếu chỉ còn chút tưởng vi tế cũng là vô thường, sanh diệt trong luân hồi. Trọng tâm giải thoát của bậc Thánh như Đức Phật dạy là đi thẳng đến chỗ không còn tưởng, không còn tưởng là không còn sanh, nếu còn một niệm là còn sanh, còn giữ một niệm cũng chưa đạt được Niết-bàn. Điều này cho thấy rằng việc buông bỏ đến chỗ cứu cánh là rất khó.
![]() |
Trong cuộc sống đời thường, con người luôn bị cuốn vào vòng xoáy của ngũ dục, bao gồm tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn uống, và ngủ nghỉ. Đồng thời chấp niệm, dính mắc vào những điều đã qua hoặc mong cầu những điều chưa đến khiến tâm trí luôn bất an và đau khổ. Đối với người tu hành, những thành tựu trong khi dụng công tu thiền lại càng khó xả bỏ hơn. Vì vậy người học Phật cốt yếu phải giác ngộ dục là vô thường, là giả dối không thật, không có thứ dục nào có thể làm cho ta ưa thích, vui vẻ mà không có đau khổ.
Người luôn chạy theo dục vọng không bao giờ thấy đủ, dù có bao nhiêu tiền tài, sắc đẹp hay danh vọng, lòng tham vẫn không ngừng trỗi dậy, làm cho cuộc sống căng thẳng, mỏi mệt, không bao giờ được bình yên. Những chấp niệm khổ đau, điên đảo cũng là nhân duyên mà có, nó không thật và luôn bị vô thường chi phối, nếu đắm chìm vào những khổ đau đó, ta sẽ đánh mất những giá trị chân thật và những hoài vọng tốt đẹp trong cuộc sống. Hoặc như người tu hành thỏa mãn với những thành tựu nhỏ mà cho là đủ, họ sẽ mãi không thể thấy được giá trị của thành tựu giải thoát tối thượng.
Chúng ta cần học theo hạnh nguyện của Đức Phật, học cách buông bỏ những điều tầm thường để hướng đến những điều cao quý hơn. Sự buông bỏ ấy cần thực hiện từ hình thức bên ngoài đến nội tâm bên trong, từ những điều thô sơ đến những điều vi tế. Về hình thức các pháp đều do duyên sinh không có thực thể nên không thật, các pháp đều bị vô thường chi phối nên luôn luôn thay đổi không cố định, không có gì là trường cửu. Vì các pháp duyên sinh, vô thường mà chúng ta chấp thường rồi luyến ái nên sinh ra khổ đau.
Người luôn chạy theo dục vọng không bao giờ thấy đủ, dù có bao nhiêu tiền tài, sắc đẹp hay danh vọng, lòng tham vẫn không ngừng trỗi dậy, làm cho cuộc sống căng thẳng, mỏi mệt, không bao giờ được bình yên. Những chấp niệm khổ đau, điên đảo cũng là nhân duyên mà có, nó không thật và luôn bị vô thường chi phối, nếu đắm chìm vào những khổ đau đó, ta sẽ đánh mất những giá trị chân thật và những hoài vọng tốt đẹp trong cuộc sống.
Do đó phải quán xét rõ ràng các pháp là duyên hợp, vô thường nên không thật có, buông dần những điều dính mắc vào pháp trần, những phiền lụy ở thế gian, từ đó đạt được giác ngộ giải thoát. Về nội tâm thì tham, sân, si lại càng khó bỏ hơn, đây cũng là thử thách mà mỗi người tu hành cần nỗ lực vượt qua. Đặc biệt, những thành tựu trong lúc thiền định lại càng khó buông bỏ, như trong kinh Phật đã dạy nếu còn một niệm “thủ trước xả ấy” thì vẫn chưa đạt đến Niết-bàn. Người tu cần phải buông hết niệm tưởng dù chỉ còn một niệm xả rất nhỏ.
Tuy buông bỏ là việc không dễ dàng nhưng Phật, Tổ đã làm được thì chúng ta cũng phải khẳng định làm được. Phương pháp thực hành là tu tập giới, định và tuệ, kết hợp với thực hành các pháp quán chiếu để nhận ra bản chất thật của các pháp. Khi hiểu rõ bản chất ấy là vô thường, duyên hợp giả có, không thật, chúng ta sẽ dần buông bỏ sự chấp trước, các niệm tưởng thưa dần, từ đó việc tu tập sẽ ngày càng thăng tiến. Ngược lại nếu chúng ta không kiên trì, không cố gắng mà buông lung, phóng dật thì tâm không an lạc, trí không sáng suốt, không thể giải thoát khỏi khổ đau. Khi buông bỏ hết chúng ta sẽ nhận được tất cả, ta không còn bị chi phối bởi những cảnh duyên xung quanh, không bị dính mắc ràng buộc mà được tự do, thân tâm thanh thoát an nhàn, không còn những phiền muộn và bất an. Khi ấy cuộc sống ngay trong hiện tại sẽ trở nên tươi đẹp, có giá trị và đáng trân quý hơn.
Chân lý Phật pháp hiển bày là nhờ vào việc từ bỏ của Đức Phật. Từ đó chúng ta càng nhận ra rằng sự từ bỏ không chỉ là việc xả buông những vật chất phù du mà còn là một quá trình tịnh hóa nội tâm hướng về sự giác ngộ. Hành trình từ bỏ của Đức Phật là minh chứng cho sức mạnh của lòng kiên trì và sự dũng cảm vượt qua những cám dỗ của đời thường. Từ một thái tử sống trong cảnh giàu sang, Ngài đã chọn con đường tìm cầu chân lý, buông bỏ tất cả những dính mắc phiền lụy để hướng đến sự thoát khỏi khổ đau. Việc từ bỏ không đồng nghĩa với mất mát mà là sự lựa chọn khôn ngoan để tập trung vào những giá trị bền vững, những chân lý sống vượt qua sự phù du của hiện hữu. Sự từ bỏ của Đức Phật còn là minh chứng cho việc mỗi con người đều có thể đi trên con đường giác ngộ để vượt qua khó khăn, thách thức trong cuộc sống. Dù con đường đó có vẻ khắc nghiệt, gian truân nhưng chính ở sự kiên trì và quyết tâm mà mỗi người có thể nhận ra giá trị của chính mình, khẳng định niềm tin vào hạnh phúc chân thật khi buông bỏ đến rốt ráo tận cùng.