Giới thiệu
Bài viết này nhằm mục đích xem xét lại lịch sử của Phật giáo Mật tông ở Trung Quốc và nghiên cứu về mối quan hệ giữa Phật giáo Mật tông và Kim Cương thừa (Vajrayāna), vì các thuật ngữ này đã và đang được sử dụng để chỉ các bản kinh, khái niệm và thực hành trong Phật giáo Trung Quốc. Đối tượng độc giả của bài viết này là các học giả hoặc những người có thể biết nhiều về Kim Cương thừa ở Tây Tạng và Bhutan, nhưng có thể biết ít về Phật giáo Mật tông ở Trung Quốc. Bài viết này cũng dành cho những ai muốn tìm hiểu về Phật giáo Mật tông Trung Quốc.
Chữ mật (密), giống như nhiều chữ Hán khác, có phạm vi ý nghĩa khá rộng, bao gồm “bí mật”, “bí ẩn”, “huyền bí” và thậm chí là “dày đặc”, “rậm rạp”. Trong bối cảnh Phật giáo, “Mật giáo” (密教) thường tương phản với Hiển giáo (顯教). Hiển có nghĩa là “hiển nhiên”, “rõ ràng”, “có thể nhìn thấy”... Một chú thích hợp lý về Mật giáo là “giáo lý mà ý nghĩa của nó không rõ ràng và đòi hỏi một số diễn giải hoặc giải thích”.
Nếu bạn tra cứu các thuật ngữ Mật giáo và Mật tông trong các từ điển Trung - Anh, bao gồm cả các từ điển Phật giáo chuyên ngành, bạn sẽ thấy chúng được dịch không chỉ là “Esoteric Buddhism” mà còn là “Vajrayāna”, “Tantra”, “Tantrism” hay “Tantric Buddhism”(1). Tuy nhiên, các thuật ngữ Mật giáo và Mật tông không hoàn toàn đồng nghĩa với Vajrayāna hay Tantra. Những thuật ngữ trước có phạm vi tham chiếu rộng hơn nhiều. Ví dụ, phần Mật giáo trong Đại chánhtạng (tập 18-21)(2) chứa 573 bản kinh, nhiều trong số đó, như chúng ta sẽ thấy, không thể được coi thuộc Kim Cương thừa (Vajrayāna) theo cách hiểu thông thường của những thuật ngữ này.
Những vị thầy vĩ đại vào triều đại nhà Đường là Kim Cương Trí (Vajrabodhi) và Bất Không Kim Cương (Amoghvajra, thế kỷ VIII TL) cùng các đệ tử của họ đôi khi sử dụng thuật ngữ Kim Cương thừa cho một số giáo thuyết của họ, giống như các dịch giả về sau vào triều đại Bắc Tống, nhưng nhìn chung Kim Cương thừa không được sử dụng nhiều trong tiếng Trung và Mật giáo/Mật tông là những thuật ngữ được sử dụng phổ biến hơn nhiều.
Để cho thuận tiện, trong bài viết này chúng tôi sẽ sử dụng các thuật ngữ “Mật giáo” và “Mật tông”(3). Chúng tôi cũng sẽ sử dụng các thuật ngữ “Kim Cương thừa” mà không phân biệt một cách có hệ thống giữa hai thuật ngữ này.
Chúng tôi xin bắt đầu bằng việc xem xét Phật giáo Mật tông vào thế kỷ VIII và đầu thế kỷ IX dưới thời nhà Đường, khi nó đạt đến đỉnh cao của sự phát triển và ảnh hưởng của nó. Sau đó, chúng tôi xem xét một số yếu tố của giáo lý Mật tông được truyền vào Trung Quốc trước thời kỳ này, trước khi chuyển sang xem xét ảnh hưởng lâu dài hơn của Phật giáo Mật tông cho đến ngày nay. Đối với tất cả những vấn đề này, chúng tôi dựa nhiều vào những tác phẩm có thẩm quyền bằng tiếng Anh, đặc biệt của Orzech, Sørensen, Hjort, Payne (2006, 2011), và những tác phẩm bằng tiếng Trung, đặc biệt của Wang (2017) và Shi (2017). Chúng tôi cũng sẽ cung cấp những bản tóm tắt ngắn gọn về các khái niệm và thực hành như được mô tả trong một số bản kinh chính yếu của Mật giáo ở trong Đại chánh có niên đại từ những thời kỳ khác nhau.
Lịch sử Phật giáo Mật tông ở Trung Quốc được biết khá rõ, mặc dù ở một mức độ nào đó nó bị ảnh hưởng bởi truyền thống Chân ngôn (Shingon) Nhật Bản. Giáo lý Mật tông, giống như giáo lý của những tông phái Phật giáo khác, ban đầu xuất phát từ các trung tâm Phật giáo ở Nam Á mà hiện là một phần của Ấn Độ, Pakistan, Nepal và Kashmir. Các nhà sư (thường) đi dọc theo các tuyến đường thương mại của Trung Á (Con đường tơ lụa), đi qua các trung tâm Phật giáo như Khotan, Kucha, Đôn Hoàng và vào Trung Quốc qua đèo Ngọc Môn (ít nhất là cho đến thời nhà Đường). Ngoài ra, họ còn đi bằng đường biển qua Đông Nam Á, thường qua vương quốc Phật giáo Srivijaya trên đảo Sumatra, vào Trung Quốc qua Quảng Châu ở phía Nam. Khi đến Trung Quốc, họ đã giảng dạy và dịch sang Hán ngữ những kinh sách mà họ mang theo, thường là hợp tác với các Tăng sĩ và học giả địa phương. Một số Tăng sĩ Trung Quốc cũng đi theo hướng ngược lại, hoặc xa đến tận tiểu lục địa Ấn Độ, hoặc đến các trung tâm Phật giáo ở Trung Á hoặc Đông Nam Á, để mang kinh sách về. Việc dịch các kinh sách được gọi là “mật” (密) bắt đầu từ thế kỷ III TL và tiếp tục cho đến ít nhất là triều đại Bắc Tống (960-1127). Nhiều bản kinh trong số này cũng có thể được tìm thấy trong tạng Tây Tạng, nhưng cũng có nhiều bản kinh chỉ có trong tạng Hán ngữ (Giebel, 2011, tr.29).
Phật giáo Mật tông vào thời nhà Đường
Phật giáo Mật tông đạt đến đỉnh cao phát triển và ảnh hưởng của nó vào thế kỷ VIII và đầu thế kỷ IX dưới thời nhà Đường. Đây là thời đại của ba vị thầy lớn Thiện Vô Úy (Śubhākarasiṃha), Kim Cương Trí (Vajrabodhi) và Bất Không Kim Cương (Amoghavajra) cùng các đệ tử của họ.
Thiện Vô Úy được cho đến từ Orda ở Đông Ấn Độ (mặc dù các nguồn không thống nhất) và đã dành một thời gian học tại Đại học Nālandā, nơi ông trở thành đệ tử của Pháp Tạng (Dharmagupta) và học giáo lý Mật tông với ông. Ông đã đi dọc theo tuyến đường Trung Á để đến kinh đô nhà Đường là Trường An vào năm 716 TL. Ngay sau khi đến nơi, ông bắt đầu công việc dịch sang Hán ngữ các kinh sách Sanskrit mà ông mang theo. Ông được hoàng đế ủng hộ và vào năm 724 đã tháp tùng hoàng đế đến kinh đô thứ cấp của nhà Đường là Lạc Dương, nơi ông đã dịch kinh Đại Tỳ-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì hay kinh Đại Nhật (Taishō 848) với sự hỗ trợ của đệ tử người Trung Quốc là Nhất Hành (一行). Sau đó, họ đã dịch các kinh sách khác có liên quan đến kinh Đại Nhật (Mahāvairocana Sūtra), và Nhất Hành đã viết một luận giải về bản kinh này. Kinh Đại Nhật, cùng với một bản kinh khác do Thiện Vô Úy dịch, kinh Tô-tất-đại-yết-la (Susiddhikara Sūtra), là hai trong ba bản kinh quan trọng nhất của Phật giáo Mật tông nhà Đường và về sau là của Chân Ngôn tông Nhật Bản.
Trong Đại chánh, kinh Đại Nhật là bản kinh đầu tiên nằm trong một nhóm các bản kinh liên quan có tiêu đề là Đại Nhật (大日), và chính nhờ cái tên này mà bản kinh này được biết đến rộng rãi. Đại Nhật là dịch nghĩa của Mahāvairocana, trong khi Tỳ-lô-giá-na (毘盧遮那) là phiên âm của từ Vairocana.
Kinh này bắt đầu bằng một cuộc đối thoại giữa Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ (Vajrapāni) và Đại Nhật (Mahāvairocana) mà ở đó nêu ra cơ sở khái niệm cho giáo thuyết. Chấp Kim Cương hỏi Đại Nhật làm thế nào Ngài có được nhất thiết trí (一切智). Đại Nhật giải thích rằng tâm Bồ-đề là nguyên nhân, lòng từ bi là gốc rễ và phương tiện là điểm cao nhất của nó. Ngài tiếp tục giải thích rằng Bồ-đề có nghĩa là biết tâm mình như nó thực sự là, tương đương với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (anuttarā samyaksaṃbodhi). Tuy nhiên, nó không thể nắm bắt được (得), bởi vì Bồ-đề có đặc điểm (相, Skt. lakṣaṇa) của hư không và không ai có thể hiểu được nó. Trên thực tế, tất cả các pháp đều vô tướng.
Các phần sau sẽ trình bày chi tiết các phương tiện hay thực hành thích hợp có thể đưa đến một sự giác ngộ như vậy. Chúng bao gồm việc thiết lập mạn-đà-la, trì chú, bắt ấn (印, mudrā), nghi lễ quán đảnh và quán tưởng Phật hay Bồ-tát.
Mạn-đà-la chính trong kinh này là “Mạn-đà-la sinh ra từ thai tạng (Skt. garbha) của tâm đại bi (大悲胎藏生曼荼羅)”, thường được gọi đơn giản là Thai tạng giới (胎藏界). Có những hướng dẫn chi tiết về việc chuẩn bị và thiết lập mạn-đà-la, bao gồm những phẩm chất và thành tựu mà vị thầy tham gia và các đệ tử của ông cần phải có, việc chuẩn bị địa điểm, các câu thần chú cần trì tụng và các vị Phật cần được quán tưởng. Đầu tiên là Đại Nhật (大日, Vairocana) và sau đó là các vị Phật của bốn phương - Bảo Tràng (寶幢, Ratnaketu) ở phương Đông, Hoa Khai Phu (華開敷, Saṃkusumita) ở phương Nam, Bất Động Phật (不動佛, Akṣobhya) ở phương Bắc, và Vô Lượng Thọ (無量壽, Amitāyus) ở phương Tây. Nó cũng bao gồm những hướng dẫn cách vẽ các vòng tròn của mạn-đà-la.
Một bản dịch hoàn chỉnh kinh này bằng Anh ngữ có thể tìm thấy trong Giebel (2005).
![]() |
Có một phiên bản của bản kinh này bằng Tạng ngữ, được dịch khoảng một thế kỷ sau bản dịch Hán ngữ. Tuy nhiên, bản Tạng ngữ thiếu quyển thứ bảy của bản Hán ngữ mà đó là một cẩm nang nghi lễ được lưu giữ như một tác phẩm riêng biệt trong Kinh tạng Tây Tạng. Mặt khác, bản dịch Tạng ngữ có chứa phần “Luận Phật tính” (Uttara-tantra) mà nó không có trong bản Hán ngữ (Giebel, 2005, tr.xiv). Ở Tây Tạng, kinh Đại Nhật (Mahāvairocana Sūtra) được phân loại là một Mật thừa thiện hạnh (Caryātantra). Tuy nhiên, Trung Quốc không có sự phân loại các tantra thành bốn phần này của Tây Tạng và trên thực tế thậm chí không phân biệt tantra với sūtra. Tất cả chúng đều được dán nhãn là kinh (經), trong bối cảnh Phật giáo là sự phiên dịch thông thường của từ Sanskrit sūtra.
Hai vị thầy lớn khác thời nhà Đường, Kim Cương Trí và đệ tử của ông là Bất Không Kim Cương, đã đến kinh đô Lạc Dương của Đông Đường vào năm 720, chỉ bốn năm sau Thiện Vô Úy. Họ đến bằng tuyến đường biển ngang qua Srivijaya và vào Trung Quốc qua Quảng Châu. Theo một nguồn, Bất Không Trí là người Nam Ấn Độ và cũng có một thời gian ở Đại học Nālāndā. Ông được cho đã nhận được sự khai giáo về Mật tông ở Nam Ấn Độ từ ngài Long Trí (龍智, Nāgabodhi). Ở Trung Quốc, ông đã nhận được sự ưu ái của hoàng đế và hoàng đế nhà Đường đã phong cho ông danh hiệu “Quốc sư”, một danh hiệu mà hoàng đế ban tặng cho những Tăng sĩ Phật giáo xuất chúng (Shi, 2017).
Kim Cương Trí được cho đã không mệt mỏi trong việc truyền bá giáo lý Mật tông. Ông đã đi đến nhiều ngôi chùa để lập đàn tràng hay bàn thờ dành cho việc quán đảnh (灌頂, Skr. abhiṣekha), có nghĩa là “khai tâm” hay “truyền đức tin”. Ông đã thực hiện một lễ quán đảnh như vậy cho hoàng đế Đường Huyền Tông, cũng như cho nhiều Tăng, Ni và cư sĩ. Ông cũng trở nên nổi tiếng vì đã thực hiện nhiều nghi lễ có hiệu quả và được triều đình mời đến thực hiện các nghi lễ cầu mưa và chữa bệnh cho một công chúa (Shi, 2017). Cùng với đệ tử của mình là Bất Không Kim Cương, ông đã dịch kinh Kim cương đính (金剛頂經, Vajraśekhara Sūtra), cũng như nhiều kinh sách khác.
Tên đầy đủ của kinh Kim cương đính là Kim cương đính nhất thiết Như Lai chân thật nhiếp Đại thừa hiện chứng đại kinh vương kinh (金剛頂一切如來眞實攝大乘現證大經王經). Bản kinh cũng nhấn mạnh vào Đại Nhật Như Lai, được trình bày ở đầu bản kinh là đang giảng dạy cho một hội chúng Bồ-tát đông đảo. Một số trong số họ đi đến gần Đức Thích Ca (dưới tên gọi Mật tông là Sarvartha Siddhi) trong khi Ngài đang thiền định dưới cội Bồ-đề vào thời điểm sắp chứng ngộ. Họ hướng dẫn Ngài các nghi lễ bí truyền mà chúng cung cấp một con đường trực tiếp hơn đưa đến giác ngộ. Giống như trong kinh Đại Nhật, những nghi lễ khác nhau được mô tả chi tiết và bao gồm những nghi lễ nhập môn, thần chú, thủ ấn và thiết lập mạn-đà-la. Mạn-đà-la trung tâm của kinh Kim cương đính là Kim cương giới (Vajra Dhātu, 金剛界). Giebel cũng đã dịch bản kinh này sang Anh ngữ (Giebel, 2001).
Kim Cương Trí và Bất Không Kim Cương đã đưa ra nhiều lời dạy dựa trên kinh Kim cương đính và các bản kinh liên quan. Kinh này đã trở thành một trong những bản kinh trung tâm của Phật giáo Mật tông đời Đường và sau đó là của Chân ngôn Nhật Bản, ở đó mạn-đà-la Kim cương giới của kinh Kim cương đính được xem là bổ sung cho mạn-đà-la Thai tạng giới (Garbha Dhātu, 胎藏界) của kinh Đại Nhật. Kim Cương Trí mất năm 741.
Nếu Thiện Vô Úy và Kim Cương Trí đặt nền móng vững chắc cho Phật giáo Mật tông thời nhà Đường thì chính nhờ Bất Không Kim Cương và các học trò của ông mà nó đã phát triển mạnh mẽ và đạt đến đỉnh cao. Bất Không Kim Cương dường như có mối liên hệ với Trung Á và theo một nguồn thì cha của ông là một thương nhân Ấn Độ và mẹ của ông là người Sogdian. Mặc dù ông đã dành nhiều thời gian ở kinh đô Trường An, nhưng ông cũng đã đi đến nhiều nơi khác ở Trung Quốc để lập các đàn tràng quán đảnh và đã thực hiện nhiều lễ quán đảnh cho các Tăng Ni và cư sĩ. Theo yêu cầu của hoàng đế Huyền Tông, ông đã lập các bàn thờ cho lễ quán đảnh và thực hiện các nghi lễ Homa (lễ cúng lửa) trong cung điện và ban lễ quán đảnh cho chính hoàng đế. Bất Không Kim Cương cũng nổi tiếng vì đã phát triển Ngũ Đài sơn (五臺山) thành một trung tâm lớn của Phật giáo Mật tông. Ông mất năm 774.
Giáo lý của ba vị thầy thời Đường này và các đệ tử của họ được gọi là Chân Ngôn thừa (真言乘) hay chỉ là Chân ngôn. Chân ngôn, nghĩa đen là “lời chân thật”, và là một sự chuyển dịch từ Sanskrit mantra. Vì vậy, Chân Ngôn thừa có thể được dịch là Mantrayāna, đây là dấu hiệu cho thấy tầm quan trọng của mantra trong giáo lý của họ. Những giáo lý này cũng được gọi là Đường mật (唐密), tức giáo lý Mật tông đời Đường.
Shingon là cách phát âm của Nhật Bản hai chữ 真言 (chân ngôn) và là tên mà qua đó những giáo thuyết này cùng các dòng truyền thừa tiếp tục truyền bá và phát triển ở Nhật Bản, mặc dù Mikkyō, cách phát âm hai từ 密教 (Mật giáo) cũng được sử dụng. Những giáo thuyết này được các Tăng sĩ Nhật Bản là Không Hải (Kūkai, 空海 774-835) và Tối Trừng (Saichō, 最澄, 767-822) đưa về Nhật Bản; họ đã đến Trung Quốc vào thời nhà Đường và nghiên cứu Mật giáo. Không Hải đã nhận phép quán đảnh từ học trò của Bất Không Kim Cương là Huệ Quả (惠果) và học với vị này cũng như với học trò của Thiện Vô Úy là Huyền Siêu (玄超), vì vậy ông có thể kết hợp giáo lý Kim cương giới và giáo lý Thai tạng giới. Ông được xem là người sáng lập ra Chân Ngôn tông Nhật Bản. Tối Trừng đã nhận được phép quán đảnh và học Chân ngôn với Thuận Hiểu (順曉). Khi trở về Nhật Bản, ông đã thành lập tông Thiên Thai (天台) của Nhật Bản, kết hợp các thực hành Mật tông vào Thiên Thai.
![]() |
Mật tông đời Đường và Kim Cương thừa
Các khái niệm và thực hành trong các kinh sách Mật tông liên quan đến ba vị thầy đời Đường dường như có tất cả các đặc điểm cốt yếu của Kim Cương thừa (Vajrayāna), mặc dù chúng ta không biết chắc chắn rằng những giáo thuyết này có được xem như các tông phái riêng biệt vào thời điểm đó hay không. Nội dung chính trong các kinh sách này là khai thị, phát hiện hay nhận chân Phật tính hay bản chất giác ngộ vốn có trong tâm một người, có khả năng ngay ở nơi kiếp này. Điều này được thực hiện thông qua việc triển khai các thực hành như bắt ấn (mudra), trì chú (mantra) và thiết lập mạn-đà-la (mandala), tượng trưng cho “tam mật” (三密) của thân, khẩu và ý, cũng như các quán tưởng Phật hay Bồ-tát và các nghi lễ khác dành riêng cho Phật giáo Mật tông, chẳng hạn như nghi lễ Homa. Tất cả những điều này được hệ thống hóa thành một con đường có mục đích cứu độ, chỉ có thể tiếp cận thông qua các nghi lễ quán đảnh do một vị thầy đủ tiêu chuẩn thực hiện.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Phật giáo Mật tông đời Đường (và do đó là Chân Ngôn tông) thiếu Tối thượng Du-già (Annuttarayoga), pháp môn cao nhất trong Kim Cương thừa Tây Tạng(4). Vì vậy theo quan điểm của Tây Tạng, Phật giáo Mật tông đời Đường có thể được xem là chỉ đại diện cho một Kim Cương thừa không đầy đủ hoặc một phần. Thật vậy, một số vị thầy Trung Quốc mà họ đã tái du nhập Phật giáo Chân ngôn hay Mật tông vào Trung Quốc vào thế kỷ XX dường như sau đó thấy cần phải kết hợp những gì họ đã mang về từ Nhật Bản với việc nghiên cứu Kim Cương thừa Tây Tạng.
Mật tông trước ba vị thầy đời Đường
Phần Mật tông của Đại chánh chứa nhiều bản dịch có niên đại trước những bản kinh liên quan đến Phật giáo Mật tông thời Đường hay Chân ngôn của thế kỷ VIII và IX, và các học giả đã chú ý đến thực tế rằng nhiều trong số những thực hành “huyền mật” tập trung vào Chân ngôn đã tồn tại trước thời điểm này.
Những thực hành bí truyền như vậy bao gồm việc trì tụng chú (咒). Chú là một thuật ngữ khá chung chung mà về cơ bản có nghĩa là thần chú, phép thuật, bùa chú và thậm chí là lời nguyền, nhưng đã và đang được sử dụng trong Phật giáo Trung Quốc để chỉ cho cả mantra và dhāraṇī (hai từ này không được phân biệt một cách rạch ròi). Ban đầu, một thần chú sẽ được phiên âm theo âm của tiếng Sanskrit gốc (hoặc ngôn ngữ khác) bằng cách sử dụng các ký tự Hán ngữ được chọn hoàn toàn vì độ tương đồng âm thanh với tiếng Sanskrit mà không liên quan đến ý nghĩa của chúng. Các ký tự này được phát âm theo nhiều cách phát âm Hán ngữ phổ biến vào thời điểm đó, nhiều khả năng là cách phát âm tiếng Hán trung đại được nói ở kinh đô. Khi những thần chú như vậy được tụng ngày nay, cách phát âm hiện đại các ký tự thường được sử dụng, thường là tiếng Phổ thông (普通), nhưng đôi khi là các phương ngữ khác như tiếng Quảng Đông. Tất nhiên, những cách phát âm này rất khác so với âm Sanskrit gốc, mặc dù đôi khi đã có những nỗ lực nhằm tái tạo cách phát âm Sanskrit gốc và sử dụng cách phát âm đó.
Bản kinh đầu tiên chứa đựng các câu chú, kinh Ma-đăng-già (Mātaṅga, 摩登伽經), được dịch sớm nhất là vào năm 230 TL. Gần một thế kỷ sau, vào năm 310, Phật Đồ Trừng (佛圖澄), một Tăng sĩ từ Trung Á, đã đến Lạc Dương và thuyết phục Thạch Lặc (石勒), người sáng lập vương quốc Hậu Triệu, nhận ông vào phục vụ. Phật Đồ Trừng đã sử dụng các kỹ năng siêu phàm của mình để thúc đẩy tham vọng chính trị và quân sự của Thạch Lặc và người kế vị, và ông đã trở nên nổi tiếng vì sử dụng thần chú để cầu mưa, chữa bệnh, xua đuổi tà ma và cầu phước lành. Mặc dù Phật Đồ Trừng không được ghi nhận là đã thực hiện bất kỳ bản dịch nào, nhưng ông là người đầu tiên nhận được sự bảo trợ đáng kể của hoàng gia đối với Phật giáo và được cho đã đảm trách xây dựng nhiều ngôi chùa và nhận được sự công nhận chính thức để truyền giới cho các Tăng sĩ Trung Quốc.
Trong hai hoặc ba thế kỷ tiếp theo, có nhiều bản kinh có chứa các câu thần chú được dịch, chủ yếu được sử dụng cho mục đích xua đuổi nhiều loại tà ma hoặc để nhận được phước lành. Một bản kinh, theo Kieschnick (2017), có thể có niên đại từ nửa đầu thế kỷ VI là Đà-la-ni tạp tập (陀羅尼雜集, T 1336); đây là một bộ tuyển tập lớn các đà-la-ni (dhāraṇī, 陀羅尼) và thần chú (神咒). Đà-la-ni được những vị Phật và Bồ-tát khác nhau đưa ra và các bản kinh đã cung cấp những hướng dẫn sử dụng, giải thích về sức mạnh của chúng và mục đích của chúng. Bộ tuyển tập bao gồm các thần chú để chữa bệnh, sinh nở khó khăn, cầu mưa, trị rắn và bọ cạp cắn, v.v.
Mặc dù chúng được cho do chư Phật và Bồ-tát thuyết, những đà-la-ni/thần chú ấy, hướng đến mục đích hoàn toàn thế tục, tất nhiên về cơ bản chúng là những câu thần chú “phép thuật” (thaumaturgy), và khó có thể xem chúng là những thực hành Kim Cương thừa. Tuy nhiên, một số thần chú trong bộ tuyển tập được mô tả là đưa đến sự tiến bộ trên con đường Bồ-tát, và chúng ta có thể xem chúng là phôi thai của việc thực hành trì tụng chú hoặc đà-la-ni trong các hệ thống của Chân ngôn. Ví dụ, về thần chú thứ sáu trong bộ tuyển tập, được Đức Phật Ca Diếp đưa ra, bản kinh nói rằng:
“... Những người thực hành trì tụng đà-la-ni này và những người chưa phát thệ nguyện chứng đắc giác ngộ đều sẽ phát thệ nguyện này và sẽ không thoái thất. Những người trước đó đã phát thệ nguyện này, nếu họ thực hành đà-la-ni này, sẽvượt qua giai đoạn thứ bảy, thậm chí đạt đến giai đoạn thứ mười. Đà-la-ni này là Kim cương định, cánh cổng đưa đến giải thoát của đại không. Một vị Bồ-tát, từ khi mới phát thệ nguyện, sẽ thực hành định này từ thời điểm vị ấy đi đến địa điểm chứng ngộ, dưới cội cây Bồ-đề, cho đến khi nhập Kim cương định [và trở thành một vị Phật]”. (Dịch từ Kieschick, Supplement: Esoteric Texts, tr.15, 2017).
Từ thế kỷ V trở đi, chúng ta thấy các nghi lễ Mật tông trở nên phức tạp hơn, bao gồm việc thiết lập các đàn tràng và bàn thờ dành riêng cho việc trì tụng thần chú. Lúc đầu, các tín đồ chỉ đơn giản dâng hương hoa trước Đức Phật và trì tụng chú, sau đó ấn quyết (mudra) được thêm vào, rồi đến nghi lễ Homa (cúng lửa). Các nghi lễ trở nên cầu kỳ hơn và vào triều đại nhà Tùy và đầu đời Đường (thế kỷ VII), đã phát triển các đàn tràng mạn-đà-la với các bàn thờ được bao quanh bởi hình ảnh của “những đấng tôn kính” (諸尊), tức chư Phật, Bồ-tát và các vị thần khác của Phật giáo Mật tông (Shi, 2017).
Một ví dụ là Đà-la-ni tập kinh(陀羅尼集經 T901), một bộ tuyển tập đà-la-ni/thần chú thời Đường mà nó chứa đựng các bản kinh được dịch trong giai đoạn 653-654 bởi A-địa-cụ-đa (Atikūtạ, 阿地瞿多), một Tăng sĩ đến từ Trung Ấn. Các bản kinh trong bộ tuyển tập chứa đựng nhiều thực hành Mật tông mà về sau được phát triển ở trong Chân Ngôn tông. Ở đó có các đà-la-ni dành cho nhiều vị Phật, Bồ-tát và chư thiên được kết hợp cùng với các thủ ấn. Có những hướng dẫn chi tiết về việc thiết lập các đàn tràng và các bàn thờ để tụng đà-la-ni/thần chú ở trước đó, cũng như những nghi lễ khác. Thần chú được cho là để đạt được thần lực (神力), “sức mạnh tâm linh” hoặc “siêu nhiên”.
Orzech tóm tắt những phát triển của Mật tông vào thời kỳ đầu nhà Đường (thành lập năm 618 TL) như sau:
“Trước hết, chúng ta thấy bản dịch của nhiều bản kinh thể hiện sự quan tâm ngày càng tăng đối với thần chú và đà-la-ni. Nhiều bản kinh trong số này nhấn mạnh một đà-la-ni, nghi lễ và vị thần cụ thể. Thứ hai, chúng ta thấy sự xuất hiện của các bản kinh đại diện cho những hệ thống riêng biệt và toàn diện mà chúng nhằm mục đích hệ thống hóa làn sóng trỗi dậy của các bản kinh Mật tông, các vị thần và kỹ thuật. Việc tiếp cận đầy đủ những hệ thống này chỉ được thông qua nghi thức quán đảnh (abhiṣeka), thực hiện bằng nghi lễ sự chuyển đổi một đệ tử thành một vị chúa tể vũ trụ. Thứ ba, những hệ thống bao quát này đã được hoàng đế chấp nhận trong suốt 20 năm, từ năm 760 đến 780”. (Orzech, 2011, tr.265)
Như vậy, khó có thể vạch ra một ranh giới rõ ràng giữa một bên là những gì chúng ta có thể xem là Phật giáo Kim Cương thừa được thể hiện qua giáo lý Chân ngôn và bên kia là Phật giáo Mật tông nói chung. Các hình thức thực hành bí truyền ban đầu dần trở nên phức tạp hơn và cuối cùng được sáp nhập vào các hệ thống toàn diện. Đồng thời, mục đích của các thực hành đã chuyển từ việc hoàn toàn thế tục sang việc đạt được nhiều loại thành tựu tâm linh và tiến bộ trên con đường Bồ-tát, và cuối cùng là chứng ngộ Phật quả.
![]() |
Những phát triển về sau
Vào thời Võ Tông đàn áp Phật giáo vào giữa thế kỷ IX, những dòng truyền thừa Chân Ngôn đã gánh chịu những khó khăn đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong một thời gian, dường như một số dòng truyền thừa vẫn tiếp tục cho đến ít nhất là thời nhà Tống, đặc biệt ở những khu vực xa kinh đô. Vào đầu thế kỷ XI dưới thời nhà Bắc Tống, đã có một đợt dịch thuật kinh điển Phật giáo khác, bao gồm cả các tantra. Tuy nhiên, chúng dường như không có nhiều ảnh hưởng vào thời điểm đó. Tuy vậy, việc thực hành và ảnh hưởng của một số khía cạnh của Mật giáo vẫn tiếp tục. Có ít nhất ba bối cảnh cho điều này.
Trước hết, trong nhiều thế kỷ đã có những hoạt động rải rác của các nhóm, thường do các vị thầy có uy tín dẫn dắt, tập trung vào việc thờ phụng các vị Phật hay Bồ-tát cụ thể của Phật giáo Mật tông, với các nghi lễ bao gồm ấn, chú và mạn-đà-la. Ví dụ, Robert Gimello (Gimello, 2004) đã mô tả sự phổ biến của việc thờ phụng Bồ-tát Chuẩn Đề, sử dụng đà-la-ni, thần chú và mạn-đà-la liên quan đến Ngài cho đến tận thế kỷ XVII, vào giai đoạn giữa sự sụp đổ của nhà Minh và sự thành lập nhà Mãn Thanh.
Thứ hai, đã có sự hồi sinh Phật giáo Đường mật (唐密: Phật giáo Mật tông đời Đường) ở Trung Quốc và trong các cộng đồng nói tiếng Hoa khác dựa trên giáo lý Chân Ngôn và Thiên Thai Nhật Bản. Điều này bắt đầu vào đầu thế kỷ XX dưới thời kỳ Cộng hòa và có thể được xem là một phần của dự án cải cách và “hiện đại hóa” Phật giáo Trung Quốc bằng cách xem xét và đánh giá lại truyền thống (Bianchi, 2004). Một số Tăng sĩ và cư sĩ đã đến Nhật Bản để nghiên cứu về Chân Ngôn và Thiên Thai tông và truyền bá giáo pháp ở Trung Quốc khi họ trở về. Một Tăng sĩ đáng chú ý trong đó là Đại Dũng (大勇), một đệ tử của Thái Hư (太虛), vị thầy và nhà cải cách vĩ đại thế kỷ XX của Phật giáo Trung Quốc. Đại Dũng đến Nhật Bản vào năm 1921 và năm sau ông theo học tại Đại học Phật giáo Mật tông trên núi Cao Dã/Kōya (高野山密宗大學), ở đó ông học cả hai hệ thống mạn-đà-la Kim cương giới (Vajra Dhātu) và mạn-đà-la Thai tạng giới (Garbha Dhātu) từ Kanayama Bokushōy (金山穆韶/Kim Sơn Mặc Thiều) và danh hiệu A-xà-lê (Ācārya) đã được trao cho ông. Ông trở về Trung Quốc vào năm 1923, thiết lập các đàn tràng quán đảnh và thực hiện lễ quán đảnh ở Thượng Hải và Hàng Châu, và sau đó đáp lại lời mời của Đại sư Thái Hư giảng dạy Phật giáo Mật tông tại Học viện Phật giáo Vũ Xương. Không lâu sau đó, ông cũng bắt đầu nghiên cứu Kim Cương thừa Tây Tạng và dành phần đời còn lại để kết hợp các thực hành của truyền thống Mật tông Nhật Bản và Tây Tạng (Deng & Wang, 2016).
Một Tăng sĩ khác đã du hành đến Nhật Bản vào cùng thời điểm đó là Đặc Tùng (特松). Ông cũng học với Kanayama Bokushō và được phong danh hiệu A-xà-lê. Khi trở về Trung Quốc, ông đã truyền bá giáo lý Mật tông, ban lễ quán đảnh và thực hiện các nghi lễ Mật tông để hộ quốc. Về sau, ông cũng học với một vị thầy Thiên Thai. Đặc Tùng đã viết hơn mười cuốn sách về Phật giáo Mật tông.
Một cư sĩ, Vương Hoằng Nguyên (王弘願), đã dịch Mật tông cương yếu (密宗綱要, 王 1981/2007) của vị Tăng sĩ Chân ngôn Gonda Raifu vào năm 1918. Đây là tác phẩm tiếng Trung đầu tiên về Chân Ngôn tông Nhật Bản (Bianchi, 2004). Cuốn sách vẫn đang phổ biến rộng rãi ở Hồng Kông và Đài Loan.
Về sau, các sự kiện vào thế kỷ XX, đặc biệt cái gọi là Cách mạng Văn hóa vào cuối những năm 60 và đầu những năm 70, ít nhiều đã làm chấm dứt việc thực hành Phật giáo Đường Mật ở Trung Quốc đại lục. Tuy nhiên, nó vẫn tồn tại ở Hồng Kông và Đài Loan, và kể từ đó cũng có sự hồi sinh hạn chế ở Trung Quốc đại lục(5). Ở Hồng Kông, các trung tâm Chân Ngôn thường không thành lập dòng truyền thừa riêng của họ. Họ duy trì mối quan hệ mật thiết với Chân Ngôn tông Nhật Bản và đôi khi vẫn gửi học viên đến Nhật Bản tham học. Tuy nhiên, ở Đài Loan, dòng truyền thừa Chân ngôn Quang minh lưu (真言光明流) do Thượng sư Ngộ Quang (悟光上師) sáng lập không tự nhận mình là Chân Ngôn tông Nhật Bản. Thay vào đó, dòng truyền thừa này tự xem mình là sự hồi sinh của Phật giáo Đường Mật. Dòng truyền thừa này có hơn 6.000 thành viên và sự ảnh hưởng của nó đã lan rộng khắp các khu vực nói tiếng Hoa (Bahir, 2018).
Cách thứ ba mà ở đó sự ảnh hưởng của Phật giáo Mật tông vẫn tồn tại ở Trung Quốc hiện đại là sự kết hợp giáo lý và thực hành Mật tông vào các tông phái khác. Thiên Thai là tông phái đầu tiên thực hiện điều này, nhưng hai tông phái thống trị Phật giáo Trung Quốc, Tịnh Độ tông và Thiền tông cũng kết hợp các yếu tố của Phật giáo Mật tông.
Một ví dụ điển hình là kinh Śūraṅgama, thường được biết đến ở Trung Quốc là Phật thuyết Thủ Lăng-nghiêm kinh (大佛頂首楞嚴經, T945), thường được viết tắt là Lăng-nghiêm kinh (楞嚴經).
Mặc dù kinh Lăng-nghiêm được tìm thấy trong phần giáo lý Mật tông của Đại chánh tạng, nhưng nó được xem là một bản kinh cốt yếu của Thiền tông và trong thực tế là một trong những kinh có ảnh hưởng nhất trong Phật giáo Trung Quốc hiện đại. Theo Hòa thượng Tuyên Hóa (宣化), trụ trì Vạn Phật Thánh Thành ở California cho đến khi qua đời vào năm 1995 và là người sáng lập Đại học Phật giáo Pháp Giới, kinh Lăng-nghiêm thường là bản kinh chính đầu tiên được các nhà sư mới xuất gia nghiên cứu tại các thiền viện ít nhất là từ thời nhà Minh. Nó cũng được những người tại gia nghiên cứu.
Hòa thượng Hư Vân (虛雲), một thiền sư và là vị thầy có ảnh hưởng vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đã thúc đẩy việc nghiên cứu bản kinh này và thực hành trì tụng bài chú trong ở đó. Về sau, Hòa thượng Tuyên Hóa cũng là người xiển dương mạnh mẽ bản kinh này và bài chú ở trong đó. Khi ông đến San Francisco, công việc đầu tiên của ông là thuyết giảng kinh Lăng-nghiêm và vào năm 1968, ông đã tổ chức một khóa tu 90 ngày tập trung vào bản kinh này. Hội Phiên dịch Kinh điển Phật giáo (BTTS) đã thực hiện một bản dịch sang Anh ngữ bản kinh này dưới sự chỉ đạo của Hòa thượng Tuyên Hóa, được xuất bản cùng với các trích đoạn từ giảng luận của ông (BTTS, 2009).
Theo Hòa thượng Tuyên Hóa: “Trong Phật giáo, tất cả các kinh đều rất quan trọng, nhưng kinh Lăng-nghiêm quan trọng nhất. Chừng nào kinh Lăng-nghiêm còn tồn tại, Chánh pháp vẫn còn ở thế gian. Mỗi khi kinh Lăng-nghiêm không còn, thời mạt pháp hiện ra trước mắt”(6).
Kinh này có phạm vi rộng, rút lấy tư tưởng từ nhiều tông phái Phật giáo Đại thừa khác nhau. Một khái niệm trung tâm của bản kinh là Như Lai tạng (如來藏) vốn có trong tất cả chúng sinh, và từ đó thế giới hư vọng của các hiện tượng tinh thần và vật lý khơi sinh. Như Lai tạng cũng chứa đựng tiềm năng giác ngộ của chúng ta khi những thực hành của chúng ta loại bỏ các lớp hư vọng. Quan điểm này tương thích với cả con đường của Kim Cương thừa đưa đến giác ngộ và với các kỹ thuật Thiền tông dùng cho việc “trực chỉ nhân tâm” (直指人心), tức cách một vị thấy khai thị cho để tử bằng cách trực tiếp khai mở bản tâm của họ.
Những phần Mật tông rõ ràng nhất của bản kinh là thần chú Ngã Phật đính quang minh Ma-ha-tát-đát-đa-bàn-đát-la vô thượng thần chú, thường được gọi ngắn gọn là thần chú Lăng-nghiêm, và những chi tiết về cách thực hành thần chú này.
Những hướng dẫn để thiết lập đạo tràng (道場) rất dài và phức tạp, bao gồm việc chuẩn bị nhiều loại lễ vật khác nhau cho chư Phật và Bồ-tát. Trên các bức tường bên trong phòng, hình ảnh của chư Phật trong mười phương được trưng bày, bao gồm về phía Nam, hình ảnh của Lô Giá Na Phật, Thích Ca, Di Lặc, A Súc (Akṣobhya) và Di Đà.
Các hành giả trước tiên phải thọ giới từ một thành viên “thực sự thanh tịnh” của Tăng đoàn, được huấn luyện về các phương pháp để đạt được định và bản thân họ thiết lập sự thanh tịnh trong hành vi. Trong bảy ngày đầu, họ phải đi nhiễu quanh đạo tràng, trì tụng chú Lăng-nghiêm. Trong bảy ngày tiếp theo, họ phải tập trung vào các thệ nguyện của Bồ-tát, và trong bảy ngày cuối, họ phải tụng chú này liên tục suốt ngày đêm. Vào ngày cuối cùng, chư Phật sẽ xuất hiện từ mười phương. Sau ba tuần, các hành giả sau đó phải tọa thiền trong một trăm ngày. “Nếu gốc rễ của họ ở nơi giáo pháp mạnh mẽ, họ sẽ không rời khỏi chỗ ngồi của mình trong thời gian đó và họ sẽ trở thành A-la-hán ở giai đoạn đầu tiên. Ngay cả khi họ không đạt đến cấp độ của một vị Thánh, chắc chắn rằng trong tương lai họ sẽ trở thành Phật”. (BTTS, 2009, tr.286).
Mặc dù là một bản kinh quan trọng của Thiền tông nhưng các yếu tố Mật giáo trong kinh này rất rõ ràng. Nó bao gồm việc tụng chú, xây dựng một đạo tràng giống như một mạn-đà-la với các bàn thờ được bao quanh bởi hình ảnh của những bậc “Bổn tôn” và quán tưởng các biểu hiện của những bậc “Bổn tôn”. Các thực hành được hợp nhất thành một hệ thống nghiêm ngặt hướng đến việc chứng ngộ Phật quả.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc tụng chú Lăng-nghiêm thường được tách khỏi bối cảnh này. Ví dụ, nếu bạn tìm kiếm chú Lăng-nghiêm trên YouTube, bạn sẽ thấy nhiều phiên bản của nó, đôi khi được trì tụng, đôi khi được hát, thường theo cách phát âm tiếng Phổ thông các ký tự, đôi khi theo cách phát âm tiếng Quảng Đông và đôi khi theo cách phát âm tiếng Sanskrit được tái tạo. Người ta thường đưa ra lời khẳng định về những sức mạnh trần tục khác nhau có thể đạt được chỉ bằng cách tụng niệm chú này, bao gồm cả phước lành cho bản thân, gia đình và đất nước.
Kết luận
Những hình thức Phật giáo khác nhau thường được khái niệm hóa theo phân loại. Đó là, có ba thừa chính - Tiểu thừa, Đại thừa và Kim Cương thừa, mỗi thừa có các dòng truyền thừa hay trường phái riêng biệt bên trong. Hoặc có hai thừa chính - Tiểu thừa và Đại thừa, trong đó Đại thừa được chia thành Ba-la-mật thừa hay Kinh thừa (Paramitayāna, Sūtrayāna) và Kim Cương thừa hay Mật thừa (Vajrayāna, Tantrayāna). Theo đó, các học giả cố gắng đưa ra các tiêu chí mà chúng phân biệt rõ ràng giữa các thừa và trường phái khác nhau. Tuy nhiên, trường hợp của Phật giáo Mật tông ở Trung Quốc cho thấy những hạn chế của cách tiếp cận như vậy.
Bên trong không gian của Phật giáo Mật tông ở Trung Quốc, chúng ta thấy có một Kim Cương thừa (Vajrayāna) nguyên mẫu mà ở đó các thực hành tụng chú/đà-la-ni, thiết lập mạn-đà-la, bắt ấn (mudra), thực hành Bổn tôn và nghi lễ Homa đều được triển khai và tích hợp thành một hệ thống nhằm đưa các hành giả nhanh chóng đạt đến giác ngộ, và điều này chỉ có thể thực hiện sau khi được một vị thầy đủ tiêu chuẩn làm lễ quán đảnh và được củng cố bởi một hệ tư tưởng khai ngộ thông qua việc khám phá hoặc nhận ra bản tâm.
Ở những khoảng cách khác nhau từ nguyên mẫu này, có thể có những biến thể mà chúng có lẽ triển khai một số, nhưng không phải tất cả, những thực hành này và hướng đến việc phát triển các sức mạnh thế tục hơn là sức mạnh giác ngộ siêu thế. Những điều này chồng chéo với “phép thuật” (thaumaturgy) mà nó sử dụng các câu thần chú hoặc các thực hành khác để đạt được những lợi ích hoàn toàn thuộc về thế gian.
Trong trường hợp của Phật giáo Mật tông Trung Quốc, cũng như bất kỳ truyền thống Phật giáo nào khác, chúng ta sẽ không cần phải đưa ra những định nghĩa có tiêu chí rõ ràng cho phép chúng ta tuyên bố trong mọi trường hợp rằng một tổ hợp các khái niệm và thực hành như vậy có phải là Kim Cương thừa, Phật giáo Mật tông, Đại thừa, v.v. hay không.
________
(1)Ví dụ, Chen & Li (Eds., 2005; Kleeman & Yu (Eds., 2003).
(2)Xem https://terebess.hu/zen/szoto/Map-of-the-Taisho.pdf.
(3)Về Phật giáo Mật tông và những thuật ngữ liên quan, xem On Esoteric Buddhism in China: A Working Definition của Sørensen.
(4)Tantra của phân loại Annuttarayoga Tây Tạng thực sự tồn tại ở Trung Quốc. Kinh Guhyasamāja và kinh Hevajra đều được tìm thấy trong Kinh tạng Phật giáo (T 885 & T 892). Tuy nhiên, cả hai bản kinh này đều được dịch muộn hơn nhiều vào đầu thế kỷ XI dưới triều Bắc Tống và hai tantra này cùng các thực hành mà chúng mô tả dường như chưa bao giờ phổ biến ở Trung Quốc.
(5)Xem 當代中國唐密法系的發展.
http://blog.sina.com.cn/s/blog_64958e4301016gzz.html.
(6)Từ On the Authenticity of the Śūraṅgama Sūtra (http://online.sfsu.edu/~rone/Buddhism/Shurangama/Shurangama%20Sūtra%20Is%20Definitely %20Authentic.htm), như được trích ở trong BTTS, 2009, tr.xli.
Tài liệu tham khảo
Bahir, C. (2018). “Replanting the bodhi tree: Buddhist sectarianism and zhenyan revivalism”. Pacific World, 3(20), 95-129.
Bianchi, E. (2004). “The tantric rebirth movement in modern China: Esoteric Buddhism re-vivified by the Japanese and Tibetan traditions”. Acta Orientalia Academiae Scientiarum Hungaricae, 57(1), 31-54.
Buddhist Text Translation Society (BTTS). (2009). The Śūraṅgama Sūtra with excerpts from the commentary by the Venerable Master Hsüan Hua: A new translation. Ukiah, CA: Author.
陳觀勝 & 李培茱 Chen, G. S., & Li, P. Z. (Eds.) (2005). 中英佛教詞典 (Chinese - English dictionary of Buddhism). Beijing: Foreign Languages Press. 鄧子美 & 王佳 Deng, Z. M., &Wang, J. (2016). 唐密在近代中國. 每日頭條. (Tang Esoteric Buddhism in Modern China). Retrieved from https://kknews.cc/zhhk/culture/z5yk2q.html
Giebel, R. W. (2001). Two esoteric Sūtras: The Adamantine Pinnacle Sūtra The Susiddhikara Sūtra. Moraga, CA: Numata Center for Buddhist Translation and Research.
Giebel, R. W. (2005). The Vairocanābhisaṃbodhi Sūtra. Moraga, CA: Numata Center for Buddhist Translation and Research.
Giebel, R. W. (2011). Taishō Volumes 18-21. In Orzech, C. D., Sørensen, H. H., & Payne, R. K. (2011). Esoteric Buddhism and the tantras in East Asia (pp.27-36). Boston: Brill.
Gimello, R. (2004). Icon and incantation: The goddess Zhunti and the role of images in the Occult Buddhism of China. In P. Granoff & K. Shinohara (Eds.),
Images in Asian religions: Texts and contexts (pp.71-85). Vancouver: University of British Columbia Press.
Kieschick, J. (2017). A primer in Chinese Buddhist writings. Stanford, CA: Stanford University. Retrieved from https://religiousstudies.stanford.edu/people/johnkieschnick/primer-chinese-buddhist-writings.
Kleeman, J., & Yu, H. (Eds.). (2003). The Oxford Chinese dictionary. Oxford: Oxford University Press.
Orzech, C. D., Sørensen, H. H., & Payne, R. K. (2011). Esoteric Buddhism and the tantras in East Asia. Boston: Brill.
Payne, R. K. (2006). Tantric Buddhism in East Asia. Boston, MA: Wisdom Publications.
釋悟光 Shi, W. G. (2017). 密教史 (A history of esoteric teachings). Hong Kong: 資本文化有限公司 (Capital Culture).
王弘願 Wang, H. Y. (2017). 密宗綱要 (An outline of Esoteric Buddhism). (2nd ed.). Taipei: 天華出版社 (Heavenly Lotus Publishing).
(NSGN 347)