Vào lúc 3 giờ chiều, một nhóm đông các vị sư trong rừng đến đảnh lễ Luang Pu. Ngài đã ngồi dậy và nói Pháp với họ. Nói bằng một giọng rõ ràng, ngài khuyên họ trên toàn bộ con đường tu tập như thể ngài đang giải quyết mọi nghi ngờ và thắc mắc của họ, tóm tắt tất cả những hướng dẫn thiền mà ngài đã từng dạy.
Tối hôm đó, gần 10 giờ tối, Luang Pu bảo chúng tôi đưa ngài ra khỏi túp lều trên xe lăn. Ngài dịu dàng nhìn quanh toàn bộ khu vực tu viện, không ai nhận ra rằng đó sẽ là lần cuối ngài nhìn ngắm mọi thứ bên ngoài.
Một lần ghi nhớ cuối cùng về pháp
Sau 10 giờ tối, Luang Pu bảo chúng tôi đưa ngài về phòng. Ngài nằm ngửa, được đỡ bởi một chiếc gối lớn. Ngài yêu cầu tám hoặc chín nhà sư trong phòng tụng Bảy bài chúc phúc (Seven Blessing Chants) cho ngài nghe. Rồi ngài bảo họ tụng kinh Sati-sambojjhanga (Thất giác chi) ba lần và kinh Duyên sinh (Dependent Co-arising) ba lần. Sau đó ngài yêu cầu chúng tôi tụng bài kinh Đại Niệm xứ (Mahasatipatthana), nhưng không ai trong chúng tôi thuộc lòng. Thế là ngài nói: “Mở sách tụng kinh ra và tụng kinh từ cuốn sách đó”, nhưng xung quanh không có cuốn sách tụng kinh nào cả. May mắn thay, Ajaan Phuunsak, người trước đó đã chăm sóc Luang Pu suốt thời gian qua, đã mang theo bản sao cuốn Kinh tụng Hoàng gia, nên sư đã nhặt nó lên và tìm kiếm trong sách để tìm đúng trang, lật đi lật lại cho đến khi Luang Pu nói: “Đưa đây”. Sau đó, ngài mở cuốn sách sang đúng trang mà không hề nhìn vào nó và nói: “Hãy tụng từ đây”. Điều này làm mọi nhà sư trong phòng ngạc nhiên, vì Luang Pu đã mở cuốn sách ngay đến bài kinh Đại Niệm xứ, ở trang 172. Bài kinh rất dài và chúng tôi phải mất hơn hai giờ mới đọc xong. Ngài lặng lẽ lắng nghe suốt thời kinh.
Lời cuối cùng
Vài khoảnh khắc sau khi chúng tôi tụng xong bài kinh Đại Niệm xứ, Luang Pu bắt đầu nói về Niết-bàn hoàn toàn của Đức Phật, từ đầu đến cuối. Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn nhận xét kết luận của ngài:
“Đức Phật đã không đạt được Niết-bàn trong bất kỳ chứng đắc về định nào của Ngài. Khi Ngài rời Tứ thiền, các uẩn thuộc tâm (mental aggregates: tức thọ, tưởng, hành, thức uẩn) của Ngài đều ngừng ngay lập tức, không còn gì còn sót lại. Nói cách khác, Đức Phật để cho thọ uẩn (feeling aggregate) của Ngài chấm dứt trong trạng thái tỉnh thức của tâm, chuỗi tâm thức bình thường của con người, hoàn toàn với chánh niệm và tỉnh giác, không có trạng thái tâm nào khác tới làm tâm bị che kín hay làm lầm lẫn chút nào. Đó là tâm trọn vẹn trong trạng thái của nó. Quý vị có thể gọi đó là tánh không vĩ đại (great emptiness), hay cái vũ trụ nguyên thủy (original cosmos), hay Niết-bàn, tùy thích. Đó là trạng thái mà tôi đã luyện tập trước giờ để đạt được”.
Đó là những lời cuối cùng của Luang Pu.
Một khoảnh khắc hoang dã trong thành phố
Hãy quay ngược thời gian một chút về một số sự kiện cách đây gần 100 năm. Nhóm bốn du tăng và Sa-di của Luang Pu đã tách khỏi nhóm của Trưởng lão Ajaan Mun và đang lang thang qua huyện Thaa Khantho ở tỉnh Kalasin. Khi băng qua khu rừng rậm, họ gặp đủ loại nguy hiểm và khó khăn: đủ loại thú rừng và đặc biệt là bệnh sốt rét. Cuối cùng, một vị sư không thể chống chọi với bệnh tật đã chết một cách thương tâm ngay trước mặt các vị sư đồng hành. Bi thảm hơn nữa, khi Luang Pu tách khỏi nhóm cùng với một chú tiểu nhỏ để vào một khu rừng hoang vu khác gần làng Kut Kawm, bệnh sốt rét đã ập đến và cướp đi sinh mạng của chú tiểu ngay trước mắt ngài. Luang Pu nhìn và không thể làm gì khác hơn, đơn giản vì ngài thiếu thuốc chữa bệnh.
Bây giờ hãy quay trở lại với những sự kiện xảy ra ngay sau 4 giờ sáng ngày 30-10-1983. Tình trạng hoang vu đó đã quay trở lại trong khoảnh khắc trong phòng của Luang Pu, vì mặc dù ngài bị bệnh nặng nhưng không có một y tá nào, không một giọt dung dịch muối “saline solution” ở bất cứ nơi nào xung quanh. Chỉ đơn giản có những đệ tử xuất gia của Luang Pu vây quanh ngài, như thể đang bảo vệ sự tự do hoàn toàn của ngài để đặt thi thể của ngài vào một cái chết không để lại dấu vết - hoàn toàn thanh tịnh, lặng lẽ và bình an.
Ngay cả thời điểm cũng thích nghi
Đức Phật đã tìm kiếm chân lý trong sáu năm, và khi Ngài đạt giác ngộ, là khi bình minh sắp đến, tức là sau 4 giờ sáng. Sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật đã giảng dạy thêm 45 năm nữa, sử dụng khoảng thời gian sau 4 giờ sáng mỗi ngày để truyền bá nhận thức của Ngài xem nên dạy ai vào ngày kế tiếp. Khi đến thời điểm nhập Niết-bàn hoàn toàn, Đức Phật đã chọn cùng thời điểm đó trong ngày.
Một loạt những sắp xếp đã khởi lên vào ngày 4-10-1888 tại làng Praasaat, tỉnh Surin, lớn lên và phát triển theo từng giai đoạn, khiến cuộc đời của ngài Luang Pu trở nên đáng ngưỡng mộ và đúng đắn. Ngài vẫn khoác chiếc y màu vàng đất cho đến cuối đời, tu hành một cách mẫu mực, thực sự là “mảnh ruộng công đức vô song cho thế gian”. Ngài đã làm việc một cách hoàn hảo vì lợi ích thực sự của chính ngài và vì lợi ích thực cho người khác cho đến ngày 30-10-1983. Đó là khi Luang Pu buông bỏ thân xác vào lúc 4 giờ 13 phút sáng - chỉ như thế.
Điều đáng kinh ngạc là các đệ tử của Ngài - cư sĩ và xuất gia, các sư trong thành thị và các sư trong rừng - đã tập trung lại để làm công đức nhân dịp bắt đầu năm thứ 96 của Luang Pu, hoàn thành chu kỳ mười-hai năm thứ tám (eighth twelve-year cycle) của ngài, như thể đang chuẩn bị đầy đủ cho sự kiện này.
Không có nghiệp xấu về thân
Chỉ đến lúc đó tôi mới hiểu Luang Pu muốn nói gì khi ngài nói rằng ngài không có nghiệp xấu về thân. Vì dù đã thọ 96 tuổi nhưng cơ thể của ngài vẫn mạnh, sinh động, sạch sẽ và bình an. Luôn luôn chánh niệm và tỉnh giác, ngài không hề bị lão suy hay lãng trí chút nào.
Khi đến lúc phải từ trần, ông chết một cách lặng lẽ, không có dấu hiệu đau đớn hay khó khăn. Ngài không gây rắc rối về tinh thần hay thể chất cho những người đang chăm sóc ngài: không lãng phí bác sĩ, không lãng phí thuốc men, không lãng phí thời gian của bất kỳ ai.
Giữa sự tĩnh lặng gần bình minh, không có tiếng ồn ào của người và xe cộ - ngay cả lá trên cây cũng tĩnh lặng, không khí mát mẻ, có cơn mưa phùn nhẹ rơi như tuyết - Luang Pu, một thành viên của Tăng đoàn bậc Thánh, thanh tịnh, rời bỏ thân ngài, để lại cho chúng ta những giới hạnh của ngài để chúng ta ghi nhớ.
______
Phra Bodhinandamuni ghi lại, Thanissaro Bhikkhu dịch từ tiếng Thái sang tiếng Anh
(NSGN 349)