Tìm hiểu về đạo đức và đạo đức học Phật giáo
1. Đạo đức là gì?
Theo sự giải thích của các triết gia phương Tây,“Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La-tinh là mos lề thói. Còn luân lý thường xem như đồng nghĩa với đạo đức thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là lề thói, tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày”(1).
Trong sách Giáo dục công dân 10 thuộc chương trình đạo tạo của Bộ Giáo dục Việt Nam, đạo đức được định nghĩa như sau: “Là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội”(2).
Như vậy, căn cứ vào các định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu đạo đức là một phạm trù luân lý căn bản của nhận thức về hành vi con người. Nó là các hình thái thuộc về tâm lý của mỗi cá nhân và được biểu hiện ngang qua hành vi của mỗi cá nhân đó. Đây là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá sự tốt xấu của mỗi con người trong xã hội. Nhờ có đạo đức, tức các quy tắc chuẩn mực về đời sống sinh hoạt hàng ngày như quan hệ gia đình, vợ chồng, con cái, bạn bè, đồng nghiệp... mà xã hội loài người mới có thể đảm bảo ổn định và phát triển bền vững.
Ngoài ra, đạo đức không chỉ được hiểu là các hành vi ứng xử giữa người với người, mà nó còn được hiểu rộng ra là hành vi ứng xử với chính mình và ứng xử giữa người với vật. Ví dụ, một cá nhân được xem là có đạo đức khi cá nhân đó thường được biết đến là người có hiếu với cha mẹ, đối xử tốt với bạn bè, yêu thương muôn loài và họ phải yêu thương chính bản thân họ.
Nói tóm lại, đạo đức là những quy tắc chuẩn mực trong hành vi ứng xử với chính mình, với cộng đồng xã hội, tức giữa người với người và rộng hơn là giữa người với vật. Chính nhờ các quy tắc này mà xã hội loài người nói riêng và cộng đồng sinh vật cùng tồn tại trên thế giới này nói chung có được cuộc sống an lành và hạnh phúc.
2. Đạo đức học Phật giáo
Theo Hòa thượng Thích Minh Châu, đạo đức học Phật giáo hay đạo đức Phật giáo được hiểu là “Một nếp sống đề cao vị trí con người và chứng minh rằng con người có khả năng đạt đến giải thoát tối thượng nếu con người có đủ ý chí và nỗ lực của con người, nếu con người tăng trưởng được niệm lực, định lực và thiền lực của con người, nếu con người phát huy được tuệ lực, giải thoát lực của con người. Bước thêm bước nữa, đạo đức Phật giáo là một nếp sống thanh tịnh, trong sạch và lành mạnh”(3).
Đây dường như là định nghĩa đầy đủ và chính xác nhất về đạo đức Phật giáo. Ngoài ra còn có các nhà nghiên cứu Phật học khác cũng có những phát biểu về đạo đức Phật giáo.
Hòa thượng Thích Chơn Thiện trong cuốn Tư tưởng Việt Nam nhân bản thực tại luận cho rằng: “Nếu hiểu hạnh phúc là đạo đức, hay đạo đức là ít ý dục, thì toàn bộ giáo lý nhà Phật là một hệ thống đạo đức mà đỉnh cao là lòng đại từ, đại bi và trí tuệ giải thoát khổ đau”(4).
Tôn giả Hammalawa Saddhatissa trong cuốn Đạo đức học Phật giáo đã viết như sau: “Nghiên cứu đạo đức học Phật giáo, những vấn đề này có thể được sắp xếp lại với hai lý do nổi bật. Thứ nhất, theo Phật giáo và tư tưởng Ấn Độ, cảnh giới cao nhất là cảnh giới siêu việt thiện ác. Thứ hai, theo Phật giáo không có khoảng cách giữa lời dạy về đạo đức và những điều gắn liền với cảnh giới lý tưởng. Nhân tính luôn đứng đầu trong việc thực hành tu tập giới luật đạo đức”(5). Và rồi sau đó Tôn giả Saddhatissa đã triển khai một loạt các vấn đề về đạo đức Phật giáo thông qua quy y, ngũ giới, từ bi, Bát chánh đạo, Niết-bàn... mà tất cả đều là các phạm trù của đạo đức Phật giáo.
Tổng hợp các nhận định trên về đạo đức Phật giáo, chúng ta có thể hiểu rằng đạo đức Phật giáo là các quy tắc ứng xử của người Phật tử theo tinh thần đạo đức mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chỉ dạy. Những hành vi này được thể hiện thông qua các quy định về giới luật, các giáo lý như từ, bi, hỷ, xả, tri túc, Tứ nhiếp pháp, Bát chánh đạo... Các quy định ấy vừa có mục đích đảm bảo phù hợp với các quy tắc chuẩn mực về ứng xử của thế gian, và đồng thời làm nền tảng hướng tới sự giải thoát trong Phật giáo.
Kho tàng giáo lý của Phật giáo chứa đựng đầy đủ các yếu tố về đạo đức, bao gồm đạo đức thế gian và đạo đức xuất thế gian. Đạo đức chính là nền tảng cơ sở của giải thoát trong Phật giáo và đồng thời giải thoát cũng chính là mục tiêu sau cùng của đạo đức Phật giáo.
Nói tóm lại, đạo đức Phật giáo là một phạm trù triết học nằm trong hệ thống các triết thuyết của giáo lý Phật giáo. Nó vừa là cơ sở lý luận và cũng vừa là mục tiêu thực tiễn trong đạo Phật. Đạo đức chính là phẩm hạnh cần phải có của một hành giả và là hạt nhân căn bản để xác định lộ trình tu chứng của vị ấy.
3. Các vấn đề cơ bản trong đạo đức học Phật giáo
Nói tới đạo đức học Phật giáo là nói tới các vấn đề liên quan đến các hành vi ứng xử của người Phật tử trong đời sống hàng ngày. Các vấn đề này đã được Đức Phật và Tăng đoàn của Ngài triển khai và thực hiện trong suốt hơn 2.560 năm qua, như các vấn đề về chính trị, văn hóa, kinh tế, giáo dục, môi trường... Chúng ta cùng tìm hiểu về một số vấn đề đạo đức căn bản trong Kinh tạng mà Đức Phật đã dạy.
Vấn đề đầu tiên là đạo đức Phật giáo trong lĩnh vực chính trị. Những lời Phật dạy về các vấn đề liên quan đến đạo đức chính trị của người Phật tử tại gia dường như rất ít, do vì tính chất đặc thù của Phật giáo là hạn chế tối đa việc can dự vào các lĩnh vực thế tục, nhất là chính trị. Nhưng điều này không có nghĩa rằng đạo Phật chối bỏ cuộc đời, trốn tránh trách nhiệm. Phật giáo hiểu rằng mục tiêu chính của mình là gì, từ đó xác định được đâu là con đường mà Phật giáo nên đi.
Từ xưa đến nay, vẫn luôn có các nhà sư tham gia vào các hoạt động chính trị. Tại Việt Nam, chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy các nhà sư như vậy. Khuông Việt, Vạn Hạnh, Đỗ Thuận, Trần Nhân Tông... là những vị sư tiêu biểu trong lĩnh vực này. Vậy các nhà sư ấy đã làm gì để khiến nhiều người kính nể và hậu thế mãi tôn vinh? Phải chăng họ đã áp dụng những lời Phật dạy về vấn đề đạo đức chính trị cho người tại gia để giúp đỡ đất nước khi cần? Vậy Đức Phật đã dạy những gì về đạo đức chính trị của người tại gia?
Trong Trường bộ kinh, Đức Thế Tôn có đề cập đến cách trị nước của bậc vua chúa đúng với Chánh pháp như sau: “Tâu Đại vương, thế nào là Thánh vương Chánh pháp? Này thái tử thân yêu, con y cứ vào Pháp, kính trọng Pháp, cung kính Pháp, đảnh lễ Pháp, cúng dường Pháp, tôn trọng Pháp, tự con trở thành Pháp tràng, Pháp kỳ, xem Pháp là thầy, tự trở thành người bảo vệ hợp pháp cho thứ dân, cho quân đội, cho Sát-đế-lợi, cho quần thần, cho Bà-la-môn, cho gia chủ, cho thị dân, thôn dân, cho Sa-môn, Bà-la-môn”(6).
Tương ưng bộ kinh ghi lại câu chuyện các vị Tỷ-kheo luận bàn về cuộc đánh nhau giữa hai nước Magadha (do vua Ajātasattu dẫn đầu) và Kosala (do vua Pasenadi dẫn đầu). Kết quả là vua Ajātasattu thắng trận, còn vua Pasenadi bị thất bại và mất ngủ. Đức Thế Tôn đã dạy như sau:
Thắng trận sinh thù oán
Bại trận nếm khổ đau,
Ai bỏ thắng, bỏ bại,
Tịch tịnh, hưởng an lạc(7).
Ở trước chỉ là một vài liệt kê sơ lược về lời dạy của Đức Phật liên quan đạo đức chính trị của người tại gia. Vẫn còn một vài bản kinh khác đề cập đến vấn đề này. Thông qua những lời dạy đó, chúng ta thấy được quan điểm về đạo đức chính trị trong Phật giáo là người lãnh đạo và người làm những công việc liên quan đến chính trị nên dùng Chánh pháp để trị. Nói cụ thể hơn là vị ấy phải có lòng thương yêu tất cả mọi người một cách bình đẳng, dùng đạo đức để đối đãi, dùng từ bi để xóa bỏ hận thù, không nên dùng bạo lực để giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn. Người lãnh đạo phải có một đời sống đạo đức chuẩn mực để lấy mình làm gương cho mọi người. Quan tâm đời sống nhân dân, chăm lo kinh tế đất nước, thúc đẩy phát triển giáo dục quốc gia và luôn luôn tôn kính các bậc trưởng thượng như cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn...
Tiếp nữa là đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo. Nói tới đạo đức trong kinh tế theo quan điểm Phật giáo tức là nói tới chánh mạng trong Bát chánh đạo. Đức Phật đã có những lời chỉ dạy cho người Phật tử tại gia để họ có thể sống một đời sống chân chánh, an lạc. Những lời dạy ấy có thể giúp người Phật tử vừa giữ tâm mình trong sạch nhưng cũng đảm bảo đời sống kinh tế gia đình phát triển ổn định và vững mạnh.
Trong kinh Thiện Sinh thuộc Trường A-hàm, Đức Phật đã dạy sáu pháp làm tổn hao tài sản mà người đệ tử nên tránh: “Này Thiện Sinh, sáu nghiệp tổn tài là: đam mê rượu chè, cờ bạc, phóng đãng, say mê kỹ nhạc, kết bạn với người ác, biếng lười”(8).
Trong Tăng chi bộ kinh, phẩm Vua Munda, Đức Thế tôn hướng dẫn các cách để gây dựng và bảo vệ tài sản: “Ở đây, này gia chủ, vị Thánh đệ tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh bàn tay, kiếm được do đổ mồ hôi ra, thâu được một cách hợp pháp; tự làm mình an lạc, hoan hỷ và chân chánh duy trì sự an lạc; làm cho mẹ cha an lạc, hoan hỷ và chân chánh duy trì sự an lạc; làm cho vợ con, người phục vụ, các người làm công được an lạc, hoan hỷ và chân chánh duy trì sự an lạc. Ðây là lý do thứ nhất để gây dựng tài sản”(9).
Như vậy, theo đạo đức Phật giáo về vấn đề phát triển kinh tế xã hội, một người Phật tử chân chánh phải làm ăn lương thiện, không lừa lọc, tránh các nghề gây tổn hại đến lòng từ bi, phúc đức của mình như buôn bán vũ khí, chúng sinh, độc dược... Tất cả những quy định về đạo đức này hoàn toàn trên tinh thần tự nguyện. Người Phật tử nào thực hiện được sẽ có đời sống an lạc và hạnh phúc.
Đạo đức Phật giáo và môi sinh xã hội là vấn đề thứ ba và cũng là vấn đề sau cùng trong phần này.
Phật thuyết Phạm võng kinh, phẩm Bồ-tát tâm địa, phần Giới phóng hỏa ghi: “Phật tử nếu vì tâm địa tàn ác mà phóng lửa lớn, đốt cháy núi rừng, đồng nội; tháng Tư đến tháng Chín cũng phóng lửa; phóng lửa đến nỗi có thể cháy lan đến cả nhà cửa, ruộng vườn và cây cối. Nhưng hết thảy đều là vật có chủ, cố ý thiêu đốt, thì phạm tội khinh cấu”(10).
Kinh Hoa nghiêm ghi: “Thấy đường nhiều bụi/ Nên nguyện chúng sinh/ Xa lìa bụi bặm/ Được pháp thanh tịnh”, “Nếu thấy núi cao/ Lúc thấy cây gai/ Thấy cây lá rậm/ Nếu thấy hoa nở/ Nếu thấy sông lớn/ Nếu thấy ao hồ/ Nếu thấy công viên...”(11). Qua đây cho thấy rằng người Phật tử cần sống hài hòa với thiên nhiên, mượn các pháp xung quanh để trưởng dưỡng sự tu tập của chính mình vậy.
Đức Phật Thích Ca cùng Tăng đoàn Tỷ-kheo của Ngài luôn sống tại những nơi thanh vắng, tịch tĩnh như núi rừng, tránh xa những chốn phồn hoa, bụi bặm của thế tục. Hàng ngày, Ngài và chúng đệ tử đi đến những xóm nhỏ để khất thực gieo duyên và sau đó trở về an tịnh dưới gốc cây để thiền quán. Vì đời sống gần gũi với thiên nhiên như vậy nên Đức Phật rất có kinh nghiệm trong việc bảo vệ môi sinh xung quanh mình. Như Đức Phật khuyên chúng đệ tử phải quán sát và chú nguyện nước uống trước khi dùng để tránh việc nuốt các loại vi trùng. Vì nuốt phải chúng sẽ tổn hại lòng từ bi và đồng thời rất có hại cho sức khỏe. Hay việc không được đổ thức ăn lên cỏ xanh hoặc đổ không đúng nơi quy định sẽ làm ô nhiễm môi trường, hủy hoại hệ sinh thái...
Ở trước chỉ là những dẫn chứng nhỏ về các khía cạnh thuộc đạo đức Phật giáo trong đời sống xã hội. Ngoài các vấn đề trên, chúng ta còn thấy được đạo đức Phật giáo thông qua lời Phật dạy trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội, sinh học...
Nói tóm lại, dường như tất cả các mặt trong đời sống đều được Đức Phật thuyết giảng rõ ràng. Ngài là Bậc Chánh biến tri, Thiện thệ, Thế gian giải cho nên mọi vấn đề đều được Ngài khéo thuyết, và nhiệm vụ của chúng ta là học và thực hành theo những lời chỉ dạy ấy. Đó chính là cách để tạo dựng phẩm hạnh, đạo đức của người Phật tử dù là tại gia hay xuất gia.
Ngũ giới: Nền tảng căn bản của đạo đức học Phật giáo
1. Giới thiệu về ngũ giới trong Phật giáo
Giới là một trong ba chi phần của Tam vô lậu học và cũng chính là đạo đức Phật giáo mà Đức Thế Tôn đã thiết lập cho chúng đệ tử của Ngài. Và giới được chia ra thành nhiều học giới khác nhau. Nhưng chính yếu vẫn là hai phần học giới căn bản là giới cho người tại gia và giới cho người xuất gia.
Về giới cho người tại gia thì có năm giới, tám giới, mười giới, Bồ-tát giới. Giới cho người xuất gia có năm giới, mười giới, Thức-xoa-ma-na giới, Tỳ-kheo giới, Tỳ-kheo-ni giới và Bồ-tát giới.
Riêng về năm giới là giới căn bản chung cho cả tại gia và xuất gia. Chỉ khác nhau ở chỗ, về giới thứ ba, người xuất gia hoàn toàn đoạn dâm dục còn tại gia thì chỉ cấm tà hạnh.
Có rất nhiều bản kinh và luật nói đến năm giới cấm của người Phật tử tại gia và xuất gia. Tựu trung, về căn bản thì năm giới này bao gồm giới không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm (dâm dục), không nói dối và không uống rượu.
Tứ phần luật trình bày rất rõ về các hành tướng vi phạm cũng như cách thức xử trị liên quan đến phạm năm giới này. Nếu một vị Tỷ-kheo phạm phải một trong bốn giới Ba-la-di (bất tịnh hạnh, sát sinh, trộm cắp, đại vọng ngữ) sẽ bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn, nếu phạm giới uống rượu trong Ba-dật-đề thì phải đối trước Tăng-già phát lồ sám hối.
Năm giới này là năm điều phạm hạnh thể hiện một nếp sống chân chánh, cao thượng của một người đệ tử Phật. Nếu Phật tử nào hủy phạm một trong năm giới này thì họ sẽ không được xem là một người đệ tử thanh tịnh như pháp. Năm điều giới này còn quyết định đến con đường tu chứng của một hành giả. Nếu hủy hoại giới pháp, hành giả đó chắc chắn sẽ không thể đạt đến những quả vị cao thượng trong đời này.
Đức Thế Tôn thiết lập giới pháp không phải là để bắt buộc chúng đệ tử phải phục tùng Ngài. Ngài chế giới là vì lòng từ bi rộng lớn, vì lợi ích của Tăng đoàn và vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Các giới điều mà Ngài thiết lập hoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện và bình đẳng. Không phải vì người này là dòng họ Sát-đế-lợi mà được ưu tiên không giữ giới này, cũng không vì người kia là Phệ-xá hay Thủ-đà-la mà bắt buộc phải thọ giới kia. Hễ bất kỳ ai phát tâm quy y làm đệ tử Phật thì đều phải thọ trì các giới cấm như nhau, để đảm bảo một đời sống chuẩn mực thanh tịnh.
Thực ra năm điều giới pháp này là chuẩn mực chung cho các quy định về đạo đức của toàn xã hội chứ không riêng gì Phật giáo. Bất kỳ một chúng sinh nào vi phạm các điều đó đều phải nhận lấy hậu quả thích đáng của nó. Vì những điều ấy là quy luật nhân quả, là một định luật tự nhiên của vụ trụ chứ không phải do Đức Phật điều hành. Cũng như ai chạm tay vào lửa thì bị phỏng, rờ vào đá thì lạnh vậy.
Nói tóm lại, giới luật nói chung và năm học giới vừa kể trên nói riêng là căn bản đạo đức của người Phật tử và cộng đồng xã hội. Bất kỳ người nào nếu thọ trì trọn vẹn các giới điều ấy thì chắc chắn sẽ có một đời sống an lành, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau:
Người trú giới có trí,
Tu tập tâm và tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỳ-kheo ấy thoát triền(12).
2. Đạo đức Phật giáo qua ngũ giới
Năm giới là những giá trị đạo đức tối thiểu mà một người Phật tử cần phải có. Năm giới này trước hết là nền tảng cơ sở để một người Phật tử có thể đảm bảo được một cuộc sống đạo đức và đem lại những hạnh phúc cho chính bản thân gia đình và xã hội, sau đó là tiến tới sự thành tựu thánh hạnh cao tột. Để hiểu rõ hơn về các vấn đề này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về từng giới một để thấy được một cách cụ thể các giá trị đạo đức chân chánh có trong năm giới ấy.
a. Đạo đức Phật giáo qua giới không sát sinh
Như trước đã nói, năm giới là cơ sở vững chắc để một người Phật tử có thể có được một đời sống phạm hạnh đúng với các chuẩn mực đạo đức của thế gian và hướng tới mục tiêu giải thoát cao đẹp. Mỗi một giới đều có một giá trị nhân bản riêng, nhưng đối với người viết thì giới không sát sinh là một trong những giới thể hiện tính nhân bản rõ ràng và cụ thể nhất, vì mạng sống là thứ thiêng liêng nhất của tất cả chúng sinh.
Mỗi sinh mạng hiện hữu trong cõi đời đều đáng trân quý, đều đáng được sống và hưởng thụ những hạnh phúc từ cuộc sống. Do vậy, không một ai trong mỗi chúng ta có quyền tước đi sinh mạng của chúng sinh khác, nhất là con người. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) quy định rằng: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật; mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”(13).
Trong Phật giáo, các quy điều về việc bảo hộ tính mạng con người, bảo vệ sinh mạng sinh vật được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất cụ thể. Việc Đức Phật chế pháp an cư cũng là một hình thức tránh sự sát sinh, vì sợ chúng Tăng giẫm đạp phải côn trùng trên đường đi khất thực; cho đến các việc như dùng đãy lọc nước, đốt lửa, hay không nuôi các loài vật như chó, mèo trong già-lam... đều thuộc về phạm trù đạo đức của người xuất gia.
Ngay từ khi chập chững bước vào chùa, các chú tiểu phải học năm giới và mười giới Sa-di. Về mười giới của Sa-di, giới đầu tiên dạy rằng: “Một là không được sát sinh. Trên đến chư Phật, Thánh nhân, sư tăng, cha mẹ, dưới đến quyên phi nhuyễn động, vi tế côn trùng, hễ có sinh mạng thì không được cố giết, bằng cách hoặc tự mình giết, hoặc bảo người giết, hoặc thấy người giết mà mừng theo”(14).
Như vậy, sự bảo hộ tính mạng trong Phật giáo có một giá trị nhân bản rất lớn. Dường như chưa có tôn giáo nào có những quy định về việc bảo hộ sinh mạng vừa nghiêm khắc nhưng lại đầy tinh thần từ bi như đạo Phật. Phật giáo tôn trọng tất cả các loài chúng sinh vì chủ trương của Phật giáo là tất cả chúng sinh đều có Phật tính, và ai ai cũng đều có thể trở thành bậc giác ngộ nếu người đó thực sự cố gắng.
Ở xã hội Ấn Độ cổ xưa, việc tế đàn theo truyền thống Bà-la-môn là việc thường xuyên xảy ra và được vua chúa cũng như xã hội chấp nhận và khuyến khích. Thế nhưng với Đức Phật, bằng lòng từ bi, Ngài đã kêu gọi chấm dứt những việc làm này, vì nó chẳng đem lại lợi ích gì, ngược lại còn gây thêm nhiều tội lỗi, đau khổ cho chính mình và các chúng sinh ấy: “Này Bà-la-môn, Ta không tán thán tất cả loại tế đàn. Nhưng này Bà-la-môn, Ta không phải không tán thán tất cả loại tế đàn. Trong loại tế đàn nào, này Bà-la-môn, bò bị giết, dê cừu bị giết, gia cầm, heo bị giết, các loài sinh vật khác đi đến bị giết hại, loại tế đàn ấy, này Bà-la-môn, liên hệ đến sát sinh. Ta không tán thán loại tế đàn ấy”(15).
Những lời dạy của Đức Phật về học giới này rất nhiều và cụ thể. Vì đây là một học giới rất quan trọng cho nên người Phật tử phải tuyệt đối thực hiện không được sai phạm. Ngoài việc nói tới các tổn hại đạo đức và con đường tu chứng khi phạm giới này, Đức Phật cũng trình bày những lợi ích rất lớn nếu chúng ta tuân thủ nghiêm khắc: “Ở trong chúng này, Ta không thấy một pháp nào đã thực hành rồi, đã thực hành nhiều rồi được hưởng phước trong loài người, được hưởng phước trên trời, được chứng Niết-bàn như chẳng sát sinh. Nếu có người chẳng hành sát sinh, cũng không nghĩ giết, thọ mạng rất dài”(16).
Tỳ-kheo Bodhi, trong cuốn Lời Phật dạy về sự hòa hợp trong cộng đồng và xã hội hợp tuyển từ Kinh tạng Pāli, đã tổng hợp lại lời Phật dạy về lợi ích của việc không sát sinh như sau: “Ở đây, này các Tỳ-kheo, vị Thánh đệ tử từ bỏ sát sinh, vị Thánh đệ tử đã ban cho vô lượng chúng sinh được thoát khỏi mọi sợ hãi, hận thù, áp bức. Bằng cách ban cho vô lượng chúng sinh được thoát khỏi mọi sợ hãi, hận thù, áp bức, chính vị ấy cũng được hưởng vô lượng tự do, thoát khỏi mọi sợ hãi, hận thù, áp bức”(17).
Nói tóm lại, không sát sinh là tiêu chuẩn đạo đức căn bản của một người Phật tử dù tại gia hay xuất gia. Học giới này là đỉnh cao của tinh thần từ bi trong đạo Phật. Nếu chúng ta thực hành đầy đủ và nghiêm khắc thì chắc chắn sẽ đem lại những kết quả to lớn, những hoa trái lành trong đời sống hiện tại, như thọ mạng dài lâu, không sợ hãi, không ác mộng, được chư thiên hộ trì, sau khi thân hoại mạng chung sẽ tái sinh về các cõi lành và đặc biệt tiến tới đạo lộ chứng đắc Niết-bàn.
b. Đạo đức Phật giáo qua giới không trộm cắp
Đây là một học giới rất quan trọng, nằm trong bốn tội Ba-la-di mà Đức Phật đã chế định. Còn đối với một người Phật tử tại gia nếu phạm vào giới này cũng không còn được xem là đệ tử thanh tịnh của Đức Phật nữa. Đây cũng là những quy định căn bản của luật pháp thế gian, thể hiện hành vi đạo đức của con người. Nếu một công dân nào đó vi phạm cũng sẽ bị xử lý theo quy định hiện hành của luật pháp tại quốc gia đó. Cá nhân đó sẽ bị xã hội lên án, chỉ trích, thậm chí là xa lánh hoặc bị tử hình. Do vậy, là một người đệ tử Phật, đại diện cho bộ mặt đạo đức thế gian lẫn xuất thế gian thì càng không thể nào vi phạm vào việc này.
Nguyên nhân đầu tiên mà Đức Phật ban hành giới này là do Tỳ-kheo Đàn-ni-ca tự ý lấy gỗ của vua Bình-sa vương về làm nơi ở của mình. Việc này đã gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng tới uy tín của Tăng đoàn. Do vậy Đức Phật đã chế ra học giới này.
Trong kinh A-hàm, Đức Thế Tôn cũng có nói đến việc không nên lấy của không cho như sau: “Lại nữa, bạch y Thánh đệ tử xa lìa việc không cho mà lấy, dứt trừ việc không cho mà lấy; có cho mới lấy, vui với việc có cho mới lấy, thường ưa bố thí, hoan hỷ không keo kiết, không mong đền trả, không tham lam, thấy tài vật kẻ khác không lấy về mình. Người ấy đối với việc không cho mà lấy, tâm đã tịnh trừ”(18).
Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm Lấy của không cho, thuật lại việc Đức Thế Tôn đã chỉ dạy các vị Tỳ-kheo về ba pháp tạo nên sự ô nhiễm, không chói sáng cho phạm hạnh của người tại gia lẫn xuất gia và là con đường dẫn vào sự rơi rớt trong luân hồi: “Đầy đủ ba pháp này, này các Tỳ-kheo, tương xứng như vậy bị rơi vào địa ngục. Thế nào là ba, tự mình lấy của không cho, khích lệ người khác lấy của không cho, tùy hỷ sự lấy của không cho. Đầy đủ ba pháp này, này các Tỳ-kheo, tương xứng như vậy bị rơi vào địa ngục”(19).
Về hành tướng vi phạm, trong Luật tạng có ghi lại rất cụ thể các trường hợp nào vi phạm nhỏ, vừa, nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Cũng giống như luật pháp của thế gian, cụ thể như pháp luật tại Việt Nam quy định về tội trộm cắp tài sản như sau: “Điều 173. Tội trộm cắp tài sản: Hành vi trộm cắp tài sản là hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản một cách trái pháp luật của người khác, lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu, người quản lý tài sản, hoặc lợi dụng hoàn cảnh mà người quản lý tài sản không biết. Hậu quả của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội chiếm đoạt được tài sản từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp luật quy định phải chịu trách nhiệm hình sự”(20).
Giới không được phép lấy đồ của người khác thể hiện tính từ bi, nhân đạo, lòng vị tha trong đạo Phật. Phật giáo chủ trương vạn pháp giai không, hết thảy đều là do duyên giả hợp. Vốn vì do duyên giả hợp nên mọi thứ là vô ngã. Do vậy không có cái gì là ta, của ta để tham đắm, khổ đau.
Hơn thế nữa, đạo Phật thấu hiểu được nỗi đau khổ của chúng sinh khi mất mát đi một thứ gì đó tạm gọi là thuộc về sở hữu của mình. Bởi ái biệt ly là khổ, những cái gì họ quý mến, trân trọng mà bị xa lìa, bị mất đi thì chắc chắn chúng sinh ấy sẽ chịu nhiều khổ đau, tiếc nuối. Do vậy, đặt vị trí của mình vào vị trí của người khác, từ đó chúng ta sẽ thấu hiểu, cảm thông và không còn có ý niệm gây đau khổ cho người khác nữa.
Nếu một cá nhân không có tư niệm chiếm hữu của người khác, một gia đình có truyền thống không trộm cắp, một xã hội được giáo dục không nên lấy của không cho thì chắc chắn quốc gia đó sẽ trở nên thái bình hơn bao giờ hết. Vì không có trộm cắp thì sẽ không có các tệ nạn như giết người, hiếp dâm, nói dối... xảy ra. Mọi người đều an tâm sống hòa hợp với nhau mà không cần phải đề phòng, lo sợ.
Động cơ của việc trộm cắp thường xuất phát từ lòng tham lam, ích kỷ của con người. Vì tâm tham lam muốn sở hữu thật nhiều cho nên con người thực hành các hành vi trộm cắp và có thể không chừa các thủ đoạn nào để thực hiện các hành vi ấy. Biết được động cơ của việc trộm cắp, Phật giáo đã đưa ra phương cách đối trị vô cùng thiết thực và nhân văn, đó chính là bố thí, một trong những hạnh nguyện cao thượng của người Phật tử.
Một người phát tâm bố thí rộng rãi, dần dần sẽ loại bỏ được tâm tham lam, keo kiệt. Từ đó có được những phước báu lớn như tài sản thêm nhiều, không bị trộm cắp, không bị các nạn khác làm tổn hao đến tài sản và thân mạng. Đặc biệt, người đó sẽ không còn tâm tham lam dẫn tới các hành vi trộm cắp nữa.
Nói tóm lại, việc không trộm cắp sẽ thiết lập nên một đời sống đạo đức đúng chuẩn mực thế gian, đồng thời người không trộm cắp cũng sẽ có được một đời sống phạm hạnh, thanh tịnh và hướng tới đạo lộ giải thoát tối hậu cho mai sau.
c. Đạo đức Phật giáo qua giới không tà dâm (không tà hạnh)
Trong kinh Khởi thế nhân bổn, Đức Thế Tôn đã nói đến sự khởi nguyên của thế giới và sự hình thành của các loài chúng sinh ban đầu xuất phát từ những thiên chúng ở cõi trời Quang Âm. Do vì tham lam về việc ăn uống, sau đó là sự ái luyến mà các thiên chúng ấy không thể trở lại nơi ở trước và phải chấp nhận định cư vĩnh viễn ở cõi này.
Tham ái, dục vọng vốn là bản năng của các loài hữu tình mà trong đó ham muốn về thể xác là một phần rất lớn trong khối tham ái đó. Con người có thể dễ dàng chiến thắng vô vàn các thế lực bên ngoài, thế nhưng để chiến thắng được dục vọng của bản thân nói chung và ham muốn về dâm dục nói riêng là một việc vô cùng khó.
Do vậy, từ xưa đến nay đã có biết bao anh hùng trượng phu bất bại trên chiến trường nhưng lại gục ngã trong lòng một người phụ nữ. Bao nhiêu cuộc chiến tranh tàn khóc xảy ra, bao nhiêu mối quan hệ bị sứt mẻ, bao nhiêu tang thương khổ ách xảy đến cũng chỉ vì một chữ dục, và đặc biệt là sắc dục. Có vị vua chỉ vì nụ cười của một mỹ nhân mà phải đánh đổi cả giang sơn, có người vì tình yêu mà hy sinh cả tuổi trẻ để chờ đợi, cũng có người vì yêu mà nhẫn tâm vứt bỏ chữ nghĩa chữ tình. Thế mới thấy ái dục có một mãnh lực đặc biệt có thể nhấn chìm cả sơn hà đại địa, và đặc biệt có thể hủy hoại cả một đời sống phạm hạnh thanh cao.
Thấy được mối nguy hiểm, sự trở ngại rất lớn cho đời sống đạo đức, phạm hạnh, Đức Phật đã chế ra các quy điều liên quan đến vấn đề này. Đây là một trong những học giới đặc biệt quan trọng mà người xuất gia lẫn tại gia phải tuyệt đối tuân theo.
Không dâm dục là giới quan trọng trong bốn pháp Ba-la-di của một vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni. Còn riêng đối với người tại gia thì giới này gọi là không tà hạnh, tức họ được phép sống đời sống vợ chồng nhưng mối quan hệ đó phải được gia đình và xã hội chấp nhận, họ không được phép lang chạ, tà hạnh với một người nam hoặc người nữ khác. Nguyên nhân Phật chế giới này là do một vị Tỳ-kheo tên là Tu-đề-na đã phạm bất tịnh hạnh với vợ cũ của mình.
Kinh Tăng nhất A-hàm ghi lại lời Phật dạy về giới này như sau: “Ở trong chúng này, Ta không thấy một pháp nào đã được thực hành, thực hành nhiều rồi lại thành hạnh địa ngục, hạnh ngạ quỷ, hạnh súc sinh, nếu sinh trong loài Người ở nhà gian dâm không có tịnh hạnh, bị người chê bai, thường bị phỉ báng. Thế nào là một pháp? Đó là tà dâm”(21).
Luật Sa-di quy định rằng: “Tất cả thế gian, dù đàn ông hay đàn bà, dù loài người hay loài quỷ, dù súc sinh vân vân, đều không được giao hợp bằng tâm lý ô nhiễm, cũng không được cho người dâm mình. Bất cứ cách nào, hễ có can phạm dâm dục là đều phạm tội nặng, mất giới Sa-di, không thông sám hối”(22).
Tỳ-kheo Chánh Minh, trong Bố thí và trì giới độ, mục 3 nói về Học giới lánh xa tà hạnh trong dục, đã giải thích về tà hạnh đối với người tu sĩ và cư sĩ như sau: “Về bậc xuất gia là Tỳ-kheo, bất kỳ một quan hệ tình dục nào, với bất kỳ đối tượng nào, đều phạm tội tẩn xuất. Đối với cư sĩ: có ba hạng người nữ không nên quan hệ tình dục bất chánh là nữ nhân sống trong sự bảo hộ của gia tộc như bà, mẹ, con, cháu, chắt. Nữ nhân có lễ giáo bảo hộ, như các Tỳ-kheo-ni, các nữ đạo sĩ. Nữ nhân có luật pháp bảo hộ, như những nữ nô lệ thời xưa. Tương tự cũng có ba hạng nam nhân không nên quan hệ tình dục bất chánh như trên”(23).
Như vậy, những vấn đề liên quan đến việc hành dâm dù là bằng tâm hay bằng thân, dù trực tiếp hay gián tiếp, thì đối với người tu sĩ là tuyệt đối không được phép. Và cũng tùy theo mức độ vi phạm mà có cách xử trị phù hợp. Như Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nào làm việc dâm dục với một người nam hoặc người nữ thì phạm vào tội Ba-la-di, bị tẩn xuất khỏi Tăng đoàn, như đọt cây sa-la bị chặt, không có khả năng mọc lại. Còn vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nào tự mình hành dâm xuất tinh thì phạm vào Tăng-tàn, phải đối thú trước 20 vị Tăng thanh tịnh mà sám hối. Đối với người cư sĩ đã phát nguyện quy y Tam bảo thì việc hành dâm tà hạnh là trái với luật Phật chế, sẽ không còn là đệ tử chân chính của Đức Phật.
Người phạm vào bất tịnh hạnh này sẽ bị những quả báo rất lớn như bị mọi người khinh chê, ngủ không yên giấc, và quả báo nghiêm trọng nhất là sẽ rơi vào cảnh khổ của địa ngục, súc sinh.
Ai ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền được thương yêu và quyền được có một đời sống hôn nhân hạnh phúc. Vậy việc Đức Phật răn cấm các đệ tử của Ngài không được làm các việc dâm dục, không được sống đời sống như vợ chồng thế tục, hoặc người cư sĩ có gia đình không được lang chạ với người khác, các điều ấy có trái với các quy tắc của thế gian, có tước đi quyền tự do hay không? Đạo Phật luôn dựa trên lòng từ bi, trí tuệ mà quán sát và giải quyết các vấn đề. Sở dĩ Đức Phật khuyên các đệ tử của Ngài phải thực hiện một cách nghiêm túc việc này vì nó liên quan đến các vấn đề thuộc về phạm trù đạo đức xã hội và đồng thời đó cũng chính là đạo đức của người xuất gia.
Bất kỳ ai đến với đạo Phật cũng đều trên tinh thần tự nguyện, Phật giáo không ép buộc, mê hoặc hay dụ dỗ bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào đến với mình. Nhưng một khi cá nhân, tổ chức ấy đã phát nguyện quy y Tam bảo thì họ phải chấp nhận các quy định mà Phật đã chế. Các giới điều ấy không mang lại lợi ích riêng cho đạo Phật, mà những quy định ấy mang lại lợi ích cho chính người thực hiện nó. Ví dụ như hành vi không được tà hạnh của người Phật tử, đây là một hành vi thể hiện chuẩn mực đạo đức của một cá nhân trong xã hội. Không có bất kỳ một cá nhân nào lại mong muốn chồng hay vợ của mình ngoại tình, hoặc thực hiện hành vi khiêu dâm, hiếp dâm, cưỡng bức người khác cả. Không có một gia đình hay xã hội nào khuyến khích các hành vi loạn dâm, tà dâm.
Bộ luật hình sự, Điều 147 quy định về Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng như sau: “Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm”(24).
Chúng ta biết rằng, dục lạc chính là nguyên nhân dẫn tới khổ đau, mà nguyên nhân ấy bắt nguồn từ vô minh, tức sự si mê, thiếu nhận thức đúng đắn. Để khắc phục được nó, chúng ta cần phải thực hành theo những gì Đức Phật đã chỉ dạy. Chúng ta phải tu tập Tứ niệm xứ, quán chiếu được sự vô thường trong các dục, bản chất không thật nơi các pháp và đặc biệt là quán sự ô trược nơi thân thể. Từ đó, chúng ta sẽ dần tiết chế được các dục lậu, tâm sẽ trở nên định tĩnh, sáng suốt và sẽ có được nhận thức chân chánh. Có được nhận thức chân chánh chúng ta sẽ không gây ra các hành vi lỗi lầm, từ đó có thể xây dựng được một xã hội an lành, tốt đẹp.
Một người có đời sống đạo đức chắc chắn sẽ không vi phạm các vấn đề về tà hạnh. Do nhờ việc làm chân chánh này người ấy sẽ được mọi người yêu mến, kính trọng và sẽ gặt hái được những thành tựu trong đời sống.
Ai ở đời đoạn dục,
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Dục hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn(25).
d. Đạo đức Phật giáo qua giới không nói dối
Về học giới này, chúng ta có thể phân chia ra thành hai nhóm tội: tội đại vọng ngữ và tội vọng ngữ thông thường.
Sa-di luật giải chép rằng: “Nếu chưa chứng bốn quả mà nói dối đã chứng, chưa chứng được bốn thiền mà nói dối đã được, chưa ngộ đạo nói dối đã ngộ, và nói dối trời đến, rồng đến, quỷ thần đến vân vân, dối mà không thật, mê hoặc thế nhân thì gọi là đại vọng ngữ, phạm tội nặng, mất giới Sa-di, không thông sám hối. Nếu công phu hơi đắc lực, vì không rành pháp tướng mà nói chứng quả vân vân thì gọi là tăng tượng mạn, chứ vốn không có tâm lừa dối nên không mất giới. Lại nữa, cái lỗi của miệng có bốn: một nói dối trá, hai nói thêu dệt, ba nói hai lưỡi, bốn nói thô ác”(26).
Như vậy, tội đại vọng ngữ tức là tội mà khi mình chưa chứng đắc pháp của bậc thượng nhân mà lại nói là đã chứng. Nguyên nhân Đức Phật chế ra giới này là do một nhóm Tỳ-kheo bên sông Bà-cừu nói dối là mình đã chứng đắc Thánh quả để được các cư sĩ cúng dường. Việc này lan truyền đến tai Đức Phật và Ngài đã chế giới.
Còn tội vọng ngữ thông thường là những tội cố ý nói lời thêm bớt, lời không đúng sự thật: “Này các Tỳ-kheo, có bốn hạnh ác về lời nói này. Thế nào là bốn? Nói láo, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời phù phiếm”(27).
Tỳ-kheo Chánh Minh, trong Bố thí và trì giới độ, đã giải thích về học giới này như sau: “Dối trá có hai cách: Biểu lộ bằng thân như viết thư hoặc ra dấu hiệu đánh lừa sự hiểu biết của người khác. Biểu lộ qua lời nói như nói dối, trâng tráo, khoa trương, phóng đại, xảo ngữ, tráo trở”(28).
Nói dối là một trong những hành vi làm tổn hại nghiêm trọng đến đạo đức, nhân cách con người. Một kẻ sống với tâm giả dối, lời nói giả dối và hành động giả dối thì không xứng đáng được mọi người tôn trọng. Người dối gạt người khác tuy rằng có thể thỏa mãn được thú vui hay mục đích nhất thời nhưng tương lai sẽ gánh chịu những hậu quả lớn do tội nói dối, lừa gạt người khác gây ra.
Chúng ta nhớ lại câu chuyện ngụ ngôn kể về một cậu bé chăn cừu. Do vì ở trên đồi một mình và buồn chán nên cậu ta đã nghĩ ra trò đùa là kêu lên có sói đến bắt cừu. Cậu ta khoái chí khi lừa được dân làng hai lần, và lần thứ ba có chó sói thật và cậu cũng la lên. Thế nhưng vì bị trò đùa lừa dối của cậu bé trong các lần trước làm cho bực dọc, nên lần này dân làng không còn tin cậu nữa nên không ai lên cứu cừu, và thế đàn cừu đã bị chó sói ăn thịt. Chỉ vì để thỏa mãn cảm xúc cá nhân, thích thú với việc lừa được người khác mà cậu bé phải nhận về mình một cái kết đắng.
Ở đây chúng ta lại nhớ tới câu chuyện của Tôn giả La-hầu-la năm bảy tuổi. Vì còn nhỏ nên La-hầu-la rất hiếu động, có sở thích trêu chọc, nói dối mọi người. Sau nhiều lần bị La-hầu-la lừa gạt, các vị Tôn giả đã trình lên Đức Phật và sau đó La-hầu-la đã được Đức Thế Tôn giáo hóa: “Này Rahula, ông có thấy chậu nước này trống không không? Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Cũng trống không vậy, này Rahula, là Sa-môn hạnh của những người nào biết mà nói láo, không có tàm quý”(29).
Trong Pháp và Luật của Đức Thế Tôn, một kẻ dùng lời nói hay hành động để lừa gạt người khác làm thú vui tiêu khiển, hoặc thực hiện một mục tiêu bất chánh, vụ lợi nào đó thì kẻ ấy hoàn toàn bị vứt bỏ. Như nước sau khi rửa chân phải bị đổ đi, như đàm dãi phải khạc nhổ, như mụt nhọt cần loại trừ.
Đức Như Lai là đấng chân thật ngữ, lời nói trước, giữa và sau đều không mâu thuẫn. Ngài đề cao tính trung thực, nhất quán của một con người. Đó được xem là đức hạnh tiêu biểu của một vị Tăng nói riêng và đạo đức người con Phật nói chung.
Một xã hội mà con người với con người không lừa lọc lẫn nhau, một xã hội mà ở đó ai ai cũng tôn trọng sự thật thì chắc chắn rằng xã hội đó sẽ rất bình yên. Con người sẽ không còn gây tạo khổ đau cho chính mình và mọi người xung quanh. Hãy lấy mình làm thí dụ, khi một ai đó lừa gạt mình thì cảm giác của mình khi ấy sẽ như thế nào. Có phải là rất đau khổ, phẫn nộ hay không?
Tín là một trong năm đức tính mà một bậc quân tử phải có theo quan niệm Nho gia. Người nào bất tín thì không được xem là quân tử, mà bị gọi là tiểu nhân. Trong Phật giáo cũng vậy, người nào không giữ chữ tín thì không xứng được gọi là chân nhân, không xứng với đời sống phạm hạnh mà Đức Thế Tôn đã chỉ dạy.
Người không có tính trung thực thì sẽ lãnh chịu hậu quả như môi lưỡi sứt mếu, răng thưa thớt, hơi miệng hôi thối, nói ra không ai tin, bị mọi người xa lánh, sau khi chết thân hoại mạng chung bị sinh vào các cõi dữ... Do vậy, là người Phật tử, ý thức được các tác hại to lớn của việc nói dối, đồng thời để tiến tu trên con đường học đạo, chúng ta phải có tính trung thực, tôn trọng sự thật, không được phép dối gạt người. Và đó cũng chính là nếp sống đạo đức cao thượng vậy.
Chớ nói lời ác độc,
Nói ác, bị nói lại,
Khổ thay lời phẫn nộ,
Đao trượng phản chạm người(30).
e. Đạo đức Phật giáo qua giới không uống rượu
Không uống rượu hay không dùng các chất kích thích, gây nghiện là một trong năm giới căn bản của người tại gia lẫn xuất gia. Tuy giới này chỉ là giá giới, không thuộc về tánh giới Ba-la-di của Tăng, nhưng nó cũng được xem là giới rất quan trọng, vì nó như một hàng rào vững chắc, một bức tường nơi ngoại thành kiên cố để ngăn chặn không cho kẻ địch đi vào bên trong. Đối với người tại gia, học giới này gọi là giới kiêng tránh, vẫn nên thọ trì một cách cẩn thận trọn đời. Giới này có công năng bảo vệ phạm hạnh đạo đức được trọn vẹn.
Nguyên nhân Phật chế giới này là nhân sự kiện “Tỳ-kheo Thiện Lai hàng phục được độc long hại phá dân làng. Sau khi cúng dường Đức Phật và chư Tỷ-kheo xong, dân làng mời Tôn giả Thiện Lai ở lại để thết đãi. Dân làng mời các loại rượu và Tôn giả đã uống và say. Khi trở về, Thế Tôn và A-nan tắm rửa thay y phục cho Thiện Lai và đặt ông lên giường. Ông vẫn ú ớ chưa tỉnh, còn quay chân về phía Thế Tôn. Chúng Tỷ-kheo thấy vậy xúm lại coi. Đức Phật hỏi: Bây giờ Thiện Lai còn có thể hàng phục được độc long không? Chúng Tỷ-kheo đáp: Bạch Thế Tôn! Bây giờ ngay cả con rắn nhỏ Thiện Lai cũng không thể hàng phục được huống gì độc long. Nhân đó Phật chế giới không được uống rượu. Tỷ-kheo nào uống rượu phạm Ba-dật-đề”(31).
Tăng chi bộ viết: “Này các Tỳ-kheo, một số Sa-môn, Bà-la-môn uống rượu men, uống rượu nấu, không từ bỏ rượu men, rượu nấu; này các Tỳ-kheo, đây là uế nhiễm thứ nhất của Sa-môn, Bà-la-môn; do uế nhiễm này làm ô nhiễm, các Sa-môn, Bà-la-môn không có cháy sáng, không có chói sáng, không có rực sáng”(32).
Tăng nhất A-hàm viết: “Ở trong chúng này, Ta không thấy một pháp nào đã được thực hành, thực hành nhiều rồi lại thành hạnh địa ngục, hạnh ngạ quỷ, hạnh súc sinh. Nếu sinh trong loài người thì cuồng, ngu si hoặc chẳng biết chân ngụy, như là uống rượu. Này các Tỳ-kheo, như có người tâm thích uống rượu, chỗ sinh ra không có trí tuệ, thường chịu ngu si”(33).
Tứ phần luật ghi cụ thể rằng: “Tỳ-kheo nào uống rượu, nấu rượu, hòa rượu hoặc ăn, hoặc uống phạm Ba-dật-đề. Nếu uống rượu có vị ngọt phạm Đột-kiết-la. Nếu uống rượu có vị chua phạm Đột-kiết-la. Ăn men rượu, hèm rượu phạm Đột-kiết-la. Rượu khởi ý tưởng là rượu phạm Ba-dật-đề. Rượu mà nghi phạm Ba-dật-đề. Rượu mà không có ý tưởng là rượu phạm Ba-dật-đề. Không phải rượu mà có ý tưởng là rượu phạm Đột-kiết-la. Không phải rượu mà nghi phạm Đột-kiết-la”(34).
Như vậy, việc Đức Phật thiết lập giới không được uống rượu là để bảo vệ chúng đệ tử không bị rượu làm cho thần trí mê mờ, dễ gây lỗi lầm. Rượu tuy không phải là thứ trực tiếp gây nên tội, nhưng nó lại có sức mạnh gián tiếp thúc đẩy động cơ tội lỗi phát sinh. Rượu là nguyên nhân gây ra rất nhiều lỗi, trong đó có 36 lỗi lớn thường được nhắc đến như uống vào thần trí lu mờ không nhận ra cha mẹ nên không tôn kính, nói năng ngông cuồng, có thể dẫn đến trộm cắp, sát sinh, dâm loạn...
Nhiều thứ khổ đau trong cuộc đời này bắt nguồn từ sự si mê, không sáng suốt. Đa phần, chúng sinh đều thích đắm mình trong cõi mộng đầy đau thương này. Họ ái luyến sắc đẹp, vui thú tà dâm, thích lọc lừa, nịnh bợ, trộm cắp, gian tham... Tất cả đều là những cái bẫy chết người, những con đường đưa vào bể khổ. Đã thế, họ còn ưa thích đi tìm sự say mê vào thói rượu chè, sa mình vào các cảm giác đê mê của các loại chất kích thích, đắm chìm trong sự bồng bềnh của ảo giác điên cuồng.
Trên báo điện tử của Cục Y tế dự phòng thuộc Bộ Y tế có đăng tải bài viết Rượu bia với lứa tuổi thanh niên: Tại sao lại cấm?. Xin trích ở đây một đoạn: “Theo một nghiên cứu của Học viện Cảnh sát Nhân dân năm 2015 thì phạm pháp hình sự liên quan đến rượu, bia trong độ tuổi trước 30 chiếm tới 70% và nguyên nhân của vi phạm pháp luật do sử dụng rượu, bia chủ yếu nằm trong độ tuổi 16 đến 30. Một nghiên cứu khác ở Mỹ cho thấy những người trẻ tuổi bắt đầu uống rượu, bia trước tuổi 15 thì về sau có thể phát sinh các vấn đề liên quan đến bia rượu cao gấp 5 lần những người đợi đến 21 tuổi mới uống. Những hậu quả đó là: khả năng nghiện rượu cao gấp 4 lần, nguy cơ có hành vi bạo lực sau khi uống rượu, bia cao gấp 6 lần, nguy cơ gây tai nạn giao thông cao gấp hơn 6 lần, gây chấn thương cao gấp gần 5 lần”(35).
Chính vì thấy được các tai hại to lớn, những hậu quả nghiêm trọng do bia rượu gây nên, Đức Phật đã chế định giới không uống rượu. Vì khi uống rượu vào, chúng ta sẽ không kiểm soát được các hành vi của thân, khẩu, ý, làm mất oai nghi trang nghiêm của một vị Tỳ-kheo, và đặc biệt là ngăn cản con đường tiến tới Thánh đạo. Vì không có Thánh đạo nào mà bắt nguồn từ sự si mê, không sáng suốt cả.
Nói tóm lại, cấm uống rượu là giới bảo vệ con người trước những hành vi sai lầm của mình, từ đó các vấn đề đạo đức được bảo đảm, phạm hạnh được nâng cao và con đường giác ngộ thêm rộng mở. Giới này không chỉ trực tiếp đảm bảo đời sống đạo đức cho người thọ trì mà còn có công năng góp phần đảm bảo đời sống đạo đức xã hội, từ đó có thể xây dựng, kiến thiết một xã hội văn minh, giàu đẹp.
Lợi ích của năm giới và một số vấn đề về thực hành giới
1. Lợi ích của năm giới
Việc thực hành năm giới nói riêng và giới luật Phật giáo nói chung sẽ đem lại những lợi ích rất lớn cho người thọ trì. Như các phần trước đã đề cập, người nào thực hiện trọn vẹn năm giới sẽ được xem là một người có nếp sống đạo đức chân chánh, cuộc sống luôn an lành và gặp nhiều may mắn, được mọi người kính trọng, thiện thần hộ trì, sau khi chết sẽ được sinh về cõi lành, và đặc biệt là tiến tới Niết-bàn.
Những điều này đã được chính Đức Phật giảng dạy trong các bản kinh, luật, và các vị Tổ sư cũng làm các bản sớ giải để giải thích rõ hơn về những lợi ích này.
Tăng chi bộ kinh viết: “Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là chân nhân”(36).
“Này các Tỷ-kheo, có ba viên mãn này. Thế nào là ba? Viên mãn về giới, viên mãn về tâm, viên mãn về tri kiến. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là viên mãn về giới? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là viên mãn về giới. Do nhân viên mãn về giới, các loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sinh vào cõi thiện, cõi trời, cõi đời này”(37).
Trong Thanh tịnh đạo, phần Giới, mục Những gì là lợi ích của giới ghi rằng: “Đó là có được nhiều đức đặc biệt mà đầu hết là bất hối. Có năm lợi ích cho người đức hạnh khi viên mãn giới, đó là: người có giới đức thừa hưởng gia sản lớn nhờ tinh cần, được tiếng tốt đồn xa, không sợ hãi rụt rè khi đứng giữa hội chúng Sát-đế-lợi hay Bà-la-môn hay gia chủ, hay Sa-môn, khi chết tâm không tán loạn, mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi trời. Lại còn nhiều lợi ích của giới, đầu tiên là được thương mến và cuối cùng là đoạn trừ phiền não lậu hoặc”(38).
Như vậy, người nào thực hành trọn vẹn các học giới này sẽ có một đời sống đạo đức cao đẹp cho mình và xã hội, xứng đáng được gọi là đệ tử của bậc Chân nhân.
2. Một số vấn đề về sự thực hành giới
Việc thực hiện các điều giới luật mà Đức Thế Tôn chế định trước hết là để thể hiện nếp sống đạo đức của mỗi cá nhân. Nếu một cá nhân phát nguyện trọn đời hành trì thì cá nhân đó sẽ có một đời sống đạo đức, an lạc trọn đời và được nhiều người kính nể. Nếu một người chỉ phát nguyện thọ trì giới luật một ngày như giới Bát quan trai thì người đó sẽ có được ít nhất một ngày sống trong đạo đức, an lạc.
Tinh thần của giới là bình đẳng, tự nguyện và thiết thực. Mỗi cá nhân hành trì đều là tự nguyện và không bị ép buộc. Giới được chế ra thành nhiều loại như giới Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Sa-di, Sa-di-ni, Thức-xoa-ma-na, tại gia, Bồ-tát... tùy theo khả năng và nghiệp lực mà theo đó phát nguyện thọ trì. Một khi đã thọ trì thì không có sự phân biệt trong cùng một giới, có chăng chỉ là sự phân định hạ lạp để tạo nên sự trang nghiêm cho Tăng đoàn. Một người xuất thân là Bà-la-môn không vì thế mà Đức Thế Tôn có những ưu ái riêng, hay vì bà con thân thích với Đức Phật mà có những giới đặc biệt nào khác. Tất cả đều mang tính bình đẳng và nhất quán. Hễ sai phạm thì y cứ vào đó mà xử lý.
Sự thực hành giới là con đường của nhiếp phục, điều hòa cân bằng giữa trí năng và cảm xúc. Khi một cảm xúc thuộc về dục vọng khởi lên, nếu một người chưa có đủ năng lực để khống chế dục vọng ấy, thì người đó cần phải nhớ nghĩ đến giới. Ngay lúc này, giới như sợi dây buộc chặt kẻ đang leo núi mà bị trượt chân sắp ngã. Sợi dây lúc bấy giờ đóng vai trò vừa buộc chặt đồng thời cũng là thứ duy nhất có thể cứu người leo núi kia khỏi bị rơi xuống tử vong. Giới cũng vậy, khi dục vọng khởi lên giới có công năng kiểm thúc nó và đồng thời giúp cho hành giả dễ dàng kéo tâm định tĩnh trở lại.
Giới được vận dụng một cách linh hoạt, thể hiện tính nhân văn và trí tuệ. Chẳng hạn như việc chư Tăng không được phép tích trữ đồ ăn cách đêm, nhưng gặp lúc mùa màng thiếu kém thì họ vẫn được linh hoạt cất giữ hoặc nấu đồ ăn trong phòng của mình. Đối với người Phật tử trong xã hội ngày nay, có một số giới điều có thể tùy theo điều kiện, hoàn cảnh mà áp dụng một cách linh hoạt.
Giới không phải là sự bó buộc, mà giới thực sự mang ý nghĩa của sự khai phóng. Giới giúp con người có được sự định tĩnh, từ đó khiến trí tuệ phát sinh. Chính trí tuệ này có công năng chặt đứt sự trói buộc của vô minh, tham ái, giúp con người có khả năng nhận biết chân chánh, xa lìa khỏi sự trói buộc của khổ đau.
Mục đích sau cùng của giới là giải thoát. Đức Phật chế định giới cho chúng đệ tử không phải vì để cho xã hội không gièm pha, hay để được nhiều người biết đến Tăng đoàn của Ngài, và càng không vì lợi dưỡng mà thiết lập giới. Đức Phật đứng trên lập trường của lòng từ bi và trí tuệ nhận thức chân chánh. Ngài biết đâu là việc nên làm, đâu là việc nên tránh, và Ngài là bậc đạo sư cho nên Ngài có nhiệm vụ hướng dẫn các đệ tử của Ngài đi đúng hướng. Do vậy, Ngài đã thiết lập giới, và hướng các đệ tử tới con đường giải thoát. Đây chính là mục đích tối hậu của Phật giáo.
Kết luận
Ở cõi đời này, không một ai sinh ra liền trở thành Thánh nhân. Tất cả các bậc Thánh nhân đều phải trải qua một quá trình thúc liễm bản thân, rèn luyện ý chí, nâng cao phẩm chất đạo đức của chính mình. Có những Thánh nhân tự chính bản thân họ thành tựu, nhưng cũng có những vị phải nhờ người khác chỉ dạy mới thành tựu.
Con đường để có thể chuyển hóa từ phàm sang Thánh không phải là một con đường dễ như đi từ cánh rừng này sang cánh rừng khác, hay từ quốc gia này sang quốc gia nọ. Con đường ấy cũng không như con đường của người bộ hành một mình lạc giữa sa mạc hoang vu hay đầm lầy đầy nguy hiểm. Có thể các con đường kia cũng đầy vất vả, dài lâu, khó khăn và nguy hiểm, thậm chí là bỏ cả thân mạng này, nhưng những con đường ấy chúng ta có thể chỉ bỏ một đời, hai đời là đạt được, còn con đường tiến tới bậc Thánh này chúng ta phải bỏ cả trăm nghìn đời, vạn ức đời có khi còn không đạt được.
Chúng ta may mắn được gặp giáo pháp của Đức Thế Tôn, được thọ lãnh sự giáo hóa của các bậc Tổ sư, nên con đường của chúng ta đã được rút ngắn lại hơn rất nhiều so với con đường mà Đức Phật đã đi và chư Tổ đã tiếp nối. Vấn đề nhanh hay chậm, dài hay ngắn, khó hay dễ ở đây không phải là vấn đề quan trọng, mà việc chính là sự nỗ lực của mỗi chúng ta, tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm có cao hay không.
Trong mỗi chúng ta, ai cũng có khao khát được trở thành con người tự do, nhưng chúng ta lại chưa một lần dám cởi bỏ những trói buộc. Ai cũng mong muốn chinh phục đỉnh cao nhưng chúng ta lại cứ mãi đứng dưới chân đỉnh mà ngắm nhìn lên rồi trầm trồ khen ngợi. Để chinh phục được con đường vạn dặm đòi hỏi chúng ta phải bắt đầu từ bước đầu tiên, để leo lên đến sự giác ngộ cao tột thì Pháp và Luật chính là sợi dây an toàn nhất để chúng ta bám vào đó mà leo lên tới đỉnh.
Ngày nay, giữa lúc các giá trị đạo đức bị đánh đổi bằng kim tiền, niềm tin tâm linh chân chánh bị phù phép thành các đức tin mù quáng, nặng màu mê tín, người Phật tử chúng ta phải có trách nhiệm khơi lại các giá trị chân thật của đạo Phật, dọn sạch những vũng lầy tà kiến, cắt đứt các sợi dây triền phược. Để làm được những điều này, đòi hỏi người Phật tử phải có một trí tuệ sắc bén. Và để có được trí tuệ ấy, chúng ta phải có sự thực hành. Nhưng lấy gì để thực hành? Ngoài Pháp và Luật dường như chúng ta không có gì để thực hành nữa cả. Do vậy, nhiệm vụ chính của người Phật tử chúng ta là phải học Pháp và thực hành Luật. Có như thế chúng ta mới có thể đạt được trí tuệ thanh tịnh, từ đó đoạn tận vô minh, chấm dứt khổ đau và tiến tới sự giác ngộ tối thượng.
----------
(1)https://sites.google.com/site/vpdu08/MucLuc/hcm/x-dhao-dhuc-va-cau-truc-cua-dhao-dhuc, Văn phòng Đảng ủy, nguồn Intrernet, truy cập ngày 12-11-2020.
(2)Mai Văn Bính (chủ biên), Lê Thanh Hà, Nguyễn Thị Thanh Mai, Lưu Thu Thủy, Giáo dục công dân 10, NXB.Giáo Dục Việt Nam, 2014.
(3)Thích Minh Châu, Đạo đức Phật giáo & hạnh phúc con người, NXB.Tôn Giáo, 2002, tr.11.
(4)Thích Chơn Thiện, Tư tưởng Việt Nam nhân bản thực tại luận, NXB.Trẻ, 2016, tr.164.
(5)Thích Thiện Chánh (dịch), Hammalawa Saddhatissa, Đạo đức học Phật giáo, NXB.Hồng Đức, 2017, tr.32.
(6)Thích Minh Châu (dịch), Trường bộ kinh, NXB.Tôn Giáo, tr.529.
(7)Thích Minh Châu (dịch), Tương ưng bộ kinh, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.152.
(8)Đại tạng kinh Việt Nam, Trường A-hàm, VNCPHVN ấn hành, 1991, tr.558.
(9)Thích Minh Châu (dịch), Tăng chi bộ kinh, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.645.
(10)Trí Quang toàn tập, Tổng tập giới pháp xuất gia, tập 1, NXB.Hồng Đức, 2018, tr.290-291.
(11)Trí Tịnh toàn tập, tập 1, Kinh Hoa nghiêm, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.489-490.
(12)Thích Minh Châu (dịch), Tương ưng bộ kinh I, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.51.
(13)http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luat/tinh-mang-con-nguoi-duoc-phap-luat-bao-ho-301136.html, nguồn internet, truy cập ngày 3-12-2018.
(14)Trí Quang (Sđd), 2018, tr.1240.
(15)Thích Minh Châu (dịch), Tăng chi bộ kinh, NXB.Tôn Giáo, 2018, tr.381.
(16)ĐTKVN, Tăng nhất A-hàm, VNCPHVN ấn hành, 1991, tr.185.
(17)Nguyên Nhật Trần Như Mai (dịch), Bhikkhu Bodhi, Lời Phật dạy về sự hòa hợp trong cộng đồng và xã hội hợp tuyển từ Kinh tạng Pāli, NXB.Hồng Đức, 2018, tr.74.
(18)ĐTKVN, Trung A-hàm, VNCPHVN ấn hành, 1991, tr.87.
(19)Thích Minh Châu (dịch), Tăng chi bộ kinh, NXB.Tôn Giáo 2017, tr.330.
(20)https://luatminhkhue.vn/-cau-thanh-toi-pham-trom-cap-the-nao-.aspx, nguồn Internet, truy cập ngày 8-4-2020.
(21)ĐTKVN, Tăng nhấtA-hàm, VNCPHVN ấn hành, tr.187.
(22)Trí Quang, Sđd., tr.1811-1812.
(23)Tỳ-kheo Chánh Minh, Bố thí và trì giới độ, NXB.Tôn Giáo, 2005, tr.262-263.
(24)https://luatminhkhue.vn/toi-vi-pham-che-do-mot-vo-mot-chong.aspx, nguồn Internet, truy cập ngày 15-4-2020.
(25)Viên Chiếu, Tích truyện pháp cú, tập 3, NXB.Tôn Giáo, 2010, tr.387.
(26)Trí Quang, Sđd., tr.1812-1813.
(27)Thích Minh Châu (dịch), Tăng chi bộ kinh, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.486.
(28)Tỳ-kheo Chánh Minh, Sđd., tr.268-270.
(29)Thích Minh Châu (dịch), Trung bộ kinh, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.508.
(30)Viên Chiếu, Sđd., tr.173.
(31)Ni trưởng Thích nữ Trí Hải, Sự tích giới luật, NXB.Hồng Đức, 2014, tr.110-111.
(32)Thích Minh Châu (dịch), Tăng chi bộ kinh, NXB.Tôn Giáo 2017, tr.395.
(33)ĐTKVN, Tăng nhất A-hàm, VNCPHVN ấn hành, 1991, tr.190.
(34)Thích Đổng Minh (dịch), Tứ phần luật, tập I, NXB.Hồng Đức, 2019, tr.527.
(35)http://vncdc.gov.vn/vi/tin-tuc-su-kien/8551/ruou-bia-voi-lua-tuoi-thanh-thieu-nien-tai-sao-lai-cam, nguồn Internet, truy cập ngày 8-1-2020.
(36)Thích Minh Châu (dịch), Tăng chi bộ kinh, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.569.
(37)Thích Minh Châu, Sđd., tr.229-300.
(38)Thích Nữ Trí Hải, Thanh tịnh đạo, tập 1, NXB.Hồng Đức, 2016, tr.27-28.
(NSGN 354 - 355)
