Phiếm luận về đạo hiếu của Chử Đồng Tử

Theo truyền thuyết dân gian, Chử Ðồng Tử là một người con rất có hiếu. Truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam chích quái, ghi về cuộc đời buổi sơ thời của Chử Ðồng Tử như sau: "Tại làng Chử Xá, có người tên Chử Vi Vân, sinh được con trai đặt tên là Chử Ðồng Tử.

Theo truyền thuyết dân gian, Chử Ðồng Tử là một người con rất có hiếu. Truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam chích quái, ghi về cuộc đời buổi sơ thời của Chử Ðồng Tử như sau: "Tại làng Chử Xá, có người tên Chử Vi Vân, sinh được con trai đặt tên là Chử Ðồng Tử. Hai cha con bản tính từ hiếu. Một thời, nhà lâm đại nạn, tài sản tiêu tán, chỉ còn lại một cái khố. Cha con ra vào thay nhau mặc, đến khi bệnh nặng gần chết, người cha mới dặn dò Chử Ðồng Tử, hãy giữ lấy cái khố để mặc, còn chôn cha khỏa thân. Nhưng Chử Ðồng Tử không đành lòng thấy cha trần truồng nằm trong lòng mộ, nên chôn khố theo cha. Thế là từ ấy, Chử Ðồng Tử khỏa thân sống dọc theo bãi cát…". Như thế, niềm hiếu đạo của Chử Ðồng Tử là ở nơi ý nghĩ và hành động chẳng thà để tự mình bị lõa lồ còn hơn để thây cha trần truồng khi chôn cất.

dongtu-1.jpg

Trong truyện này, ta thấy vấn đề xoay quanh chiếc khố duy nhất giữa hai cha con Chử Ðồng Tử. Thực tế, cho dù nghèo đói đến đâu, cũng không lý nào mà cả hai cha con chỉ có được một chiếc khố để che thân. Cũng như câu dân gian thường nói "Nghèo đến nỗi không có mảnh đất để cắm dùi", lẽ là phải nói "Nghèo đến nỗi không có được một cái dùi để cắm đất". Cho nên, khi nói ra vào, cha con Chử Ðồng Tử thay đổi nhau mà mặc, vậy đến phiên người mặc nó, thì người đó làm gì? Tất nhiên là đi ra ngoài kiếm sống, sinh nhai. Không lý trong thời gian vật lộn với cuộc sống như vậy, cả hai cũng không thể dành dụm được một chút gì để có thể sắm thêm được một cái khố nữa hay sao? Sao phải cứ thay nhau mà mặc một chiếc, cho đến khi người cha chết rồi cũng phải chôn theo luôn để tự mình trần truồng như nhộng?

Như vậy, ở đây, chiếc khố có ý nghĩa gì? Dĩ nhiên, khố là để che nơi kín đáo của con người, tuy kín đáo nhưng mà lại là nguyên ủy của sự sinh sôi nảy nở, sự truyền thừa nòi giống của con người. Một khi che kín lại, một mặt là để phù hợp với thuần phong mỹ tục khi sống trong khuôn khổ của xã hội, nhưng mặt khác thì lại che mất đi cái nguyên ủy, cái bản thể, cái chân tánh của con người. Cho nên hình ảnh một Chử Ðồng Tử lõa thể, có thể nói đó là hình ảnh nguyên sơ, trút bỏ hết mọi ngăn che, mọi hệ phược, để đạt đến cái mà Ðạo gia gọi là "xích tử", "hồn nhiên", hay "bản phác", và là điều mà Phật gia gọi là "không còn dính mắc", "không còn ràng buộc", tức là "giải thoát". Không còn gì cả, nên đạt được tất cả. Trở về với nguyên uyên của cái gọi là "bản lai diện mục" trong nhà Thiền.

Rồi cũng chính nhân duyên hiếu hạnh chôn khố theo cha mà Chử Ðồng Tử mới có thể gặp được Tiên Dung khi nàng công chúa này lại chọn đúng vào nơi Chử Ðồng Tử ẩn vùi thân dưới cát. Thế là cả hai thành vợ thành chồng, cho đó là duyên tiền định. Nếu xét ở logic thông thường thì đây là chuyện hoang đường. Có lẽ vì thế mà xưa nay, chuyện Chử Ðồng Tử chỉ lưu truyền trong dân gian như là một huyền thoại, ngay cả khi được phái Nội Ðạo tôn xưng là biểu trưng cho đạo hiếu, là vị tổ của quan niệm về chữ hiếu của dân tộc Việt Nam, vẫn không được giới Phật gia lưu tâm đến. Cho nên, ta cần đặt vấn đề đọc lại chuyện Chử Ðồng Tử bằng một nhân sinh quan mới.

Qua những điều trên, ta bắt đầu trực diện với hai lý tắc đáng kể. Trước nhất, một anh chàng nghèo xơ kiết xác, trọn đời không sắm được một mảnh vải để che thân, ở dưới tận cùng nhất của cái cùng cực thấp kém lại được sánh vai cùng nàng công chúa giàu sang cao ngất tột đỉnh trên nấc thang xã hội. Thực tế bất khả thể. Cả hai biểu trưng cho hai thái cực tương phản nhau. Có phải chăng vì là hai thái cực cho nên chung quy cũng phải quay về một mối nên cũng phải gặp gỡ nhau? Ðó là lý tắc uyên nguyên của Ðạo. Mà trong đạo Phật thì không cực đoan nào có thể tồn tại. Bởi vì còn cực đoan là còn nhị nguyên, còn có đối đãi, còn bị điều kiện tương ưng. Chỉ có trung dung, siêu việt cả hai để đi đến cái Một bất nhị mới có thể thấu triệt được chân lý trung đạo. Lý tắc thứ hai, chính ở nơi điều mà thế gian cho là duyên tiền định, ngay cả đến Chử Ðồng Tử cũng quan niệm "vợ chồng [họ] là do bởi Trời mà nên". Nhà Phật gọi đó là nhân quả. Từ nơi nguyên nhân là do lòng hiếu thúc đẩy phải chôn khố theo cha mới đưa đến kết quả là gặp được Tiên Dung, nên duyên vợ chồng. Giả dụ như mà Chử Ðồng Tử có khố, thì làm gì có việc chàng phải vùi mình dưới cát để trốn, mà chỉ có chuyện là nhởn nhơ đâu đó, thì duyên tiền định không đến mà nhân quả cũng chẳng thành. Ðây là lý tắc chủ yếu, phát sinh từ nơi lòng hiếu thảo của Chử Ðồng Tử đưa đến việc thành hôn cùng Tiên Dung, từ đó họ bắt đầu phát triển việc buôn bán (Chử Ðồng Tử còn được cho là ông tổ nghề thương buôn) dẫn đến cuối cùng gặp nhà sư Nhật Quang tại núi Quỳnh Viên nơi cửa biển Nam Giới, còn gọi là cửa Sót [Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, 1999, tr.19-22], thuộc Hà Tĩnh ngày nay, một cuộc nhân - quả, quả - nhân duyên khởi trùng trùng.

dongtu-1.jpg

Câu chuyện Chử Đồng Tử ẩn chứa nhiều triết lý

của người Việt xưa cần được nghiên cứu và giải mã

Sau khi gặp nhà sư Nhật Quang trên núi Quỳnh Viên và được truyền pháp, Chử Ðồng Tử lại còn được tặng cho một cây gậy và một chiếc nón và được sư dặn rằng: "Mọi việc linh thông đều ở đó". Gậy và nón gợi ra biểu tượng cho sự phồn thực, là một giải cách rất phù hợp, bởi vì từ nơi lòng hiếu thảo của Chử Ðồng Tử, chắc chắn khi sinh con đẻ cháu, hiếu đạo đó sẽ được truyền thừa và với sự linh thông giữa gậy và nón, chắc chắn truyền thừa đó đã trở thành bẩm sinh trong lòng con cháu của Chử Ðồng Tử, của những người con Việt, của dân tộc Việt Nam. Một giải cách thứ hai về sự linh thông của cây gậy [xem thêm bài "Ý nghĩa của cây gậy trong truyện Chử Ðồng Tử và Man Nương" của Ngọc Kinh Lang Hoàn] cũng là để biểu hiện một nền Phật giáo quyền năng trong giai đoạn du nhập vào Việt Nam và hài hòa cùng các đức tin bản địa. Trong truyện Nhất Dạ Trạch này, sau khi vợ chồng Chử Ðồng Tử thành công trong việc tạo dựng một vùng đất mới để an cư lạc nghiệp thì bị vua Hùng Vương tưởng dân tạo phản, kéo quân đánh. Trong một đêm nhờ vào cây gậy, Chử Ðồng Tử đã hô phong hoán vũ tạo nên thành quách lâu đài, quân binh rầm rộ, khiến Hùng Vương phải giảng hòa, mới biết ra đó là vợ chồng Tiên Dung mà trước kia vua trục xuất. Thế là thành quách lâu đài, không còn giá trị thực dụng nữa, sau một đêm biến mất. Có phải chăng đây là ý nghĩa "Hóa thành" trong kinh Pháp Hoa? Tất cả đều huyễn hóa, không thật, tất cả đều chỉ là phương tiện mà thôi.

Thường vào mùa Vu lan, ta hay nhắc đến chuyện Mục Kiền Liên nhờ lòng hiếu thảo đã cứu được mẹ thoát khỏi cõi địa ngục. Chuyện Chử Ðồng Tử trái lại là một biểu tượng hiếu đễ ngay tại cõi thế. Ðạo hiếu của Phật giáo Việt Nam như thế chính là ở nơi thực hiện ngay với người sống, chứ không phải là "Sống thì lại chẳng cho ăn, đến khi chết mới làm văn tế ruồi" như ta thường thấy qua hình thức rình rang nghi táng thậm chí ngay cả vào thời nay. Mà chữ hiếu của Chử Ðồng Tử được thể nghiệm ngay trong tương quan giữa người sống với người sống. Chính ngay trong sinh hoạt hàng ngày mà người đời đã nhận định hai cha con Chử Ðồng Tử là "từ hiếu", cha hiền, con hiếu, và tuyệt đỉnh của thể hiện đạo hiếu này chính là nơi chôn khố theo cha để cha không lõa thể thi thể. Chuyện Chử Ðồng Tử không có vấn đề vào địa ngục cứu mẹ, một vấn đề huyền bí siêu linh, thường thấy ở Trung Hoa. Bởi vì nghiệp đã tạo rồi, thì tự người gây nghiệp phải gánh nhận hậu quả, không ai có thể giải quyết được. Ngay chính Ðức Phật, bậc Giác ngộ, mà còn có "tam bất năng", trong đó "định nghiệp bất năng chuyển" là một .

dongtu-2.jpg

Chữ hiếu của Chử Ðồng Tử như thế lại có tích cách vô cùng tích cực, thực dụng và thực tế không trừu tượng, không đi vào cõi âm linh, không siêu nhiên như chuyện Mục Kiền Liên. Mà bản chất đạo Phật cũng là tích cực, thực dụng và thực tế, cho nên chuyện Chử Ðồng Tử không còn phải là một truyền thuyết nữa, mà là một sự kiện với đầy đủ dữ liệu hoàn toàn phù hợp với tinh thần Phật giáo đương thời. Bởi vậy, ngoài việc cây gậy và chiếc nón tạo nên sự linh thông làm nền tảng cho tầng lớp Phật giáo quyền năng tại Việt Nam [Lê Mạnh Thát, sđd, tr.22], chuyện Chử Ðồng Tử còn tiềm ẩn rất nhiều tư tưởng, rất nhiều triết lý, rất nhiều ý nghĩa có tính cách Phật giáo rất căn bản cần phải được giải mã, như trên đã một phần đề cập đến. Chuyện không phải chỉ chờ đến lúc Chử Ðồng Tử gặp được nhà sư Phật Quang mới xác định được Chử Ðồng Tử là người Phật tử đầu tiên và Phật Quang là nhà truyền đạo đầu tiên tại Việt Nam mà thôi.

Như học giả tài danh Hồ Thích đã từng xác định rằng: "Phật giáo đã truyền vào Giao Châu rất sớm, có thể là 400 hay 500 năm trước thời Lý hoặc luận (ra đời khoảng cuối thế kỷ thứ II sdl) và các kinh luận đã được học tập và phiên dịch tại đây còn sớm hơn rất nhiều các kinh điển hiện tồn tại Trung Quốc cho ta biết". Như thế có nghĩa là, theo Hồ Thích, Phật giáo đã có mặt tại Giao Châu khoảng 200 hay 300 năm trước dương lịch, và đó là điều rất phù hợp với niên đại của Chử Ðồng Tử sống vào triều Hùng Vương ở khoảng thế kỷ II tdl. Một phù hợp không phải chỉ do suy diễn mà đã có luận cứ vững chắc như các dẫn chứng trên. Ngoài ra, các học giả Ðông phương học khác như E. Schafer, G. Sargent, Tsukamoto Zenryù và J. Keenan cũng trực tiếp hay gần xa ủng hộ xác định trên của Hồ Thích [Hồ Thích, Luận học nghiên cứu, tập I, tr.151-154; Schafer, E.H, The Vermillion Bird: T’ang Image of the South, Berkely: UC Berkeley Press, 1967, p.97, Sargent, G.E., "The Intellectual Atmosphere in Lingnan at the Time of the Introduction of Buddihsm"in Drake, F.S (editor), Symposium on Historical and Linguistics Studies on Southern China, University of Hongkong, 1967, p.161-171; Tsukamoto Zenryù, A History of Early Chinese Buddihsm : from its Introduction to the Death of Hui-yuan, tr. By Leon Hurvitz. Tokyo, Kodansha, 1985, tập 1, tr.43-45, Keenan, J., How Master Mou remmoves Our Doubts : a Reader-Response Study and Translation of the Mou-tzu Li-hou lun. State University of New york Press, 1994, p.184, note 86].

Tóm lại, sự tồn tại của Chử Ðồng Tử như là một trong Tứ Bất Tử, biểu trưng cho đạo hiếu của dân tộc Việt Nam, và như là người Phật tử đầu tiên sống khoảng thế kỷ II tdl, Phật giáo cần phải được xác quyết một lần dứt điểm là đã hiện hữu tại Việt Nam ở những thế kỷ II, III trước dương lịch [Lê Mạnh Thát, sđd, ch.I] và đã tôn trọng đạo hiếu theo quan điểm tích cực và thực tế của dân tộc Việt Nam.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày