Đây không chỉ là dịp để tưởng nhớ và đền đáp công ơn cha mẹ sinh thành, mà còn là cơ hội để hàng đệ tử xuất gia dâng trọn lòng thành lên các bậc Ân sư, những vị đã truyền trao giới thân huệ mạng, nuôi lớn lý tưởng Bồ-đề và dẫn dắt từng bước chân trên con đường giải thoát.
Vu lan khởi nguồn từ câu chuyện đầy cảm động về lòng hiếu thảo của Bồ-tát Mục Kiền Liên, một trong mười vị đại đệ tử của Đức Phật. Khi biết mẹ mình vì nghiệp ác mà phải đọa vào loài ngạ quỷ, chịu đói khát khổ đau, ngài đã tìm mọi cách để cứu mẹ ra khỏi cảnh khổ. Nghe lời thỉnh cầu tha thiết của tôn giả, Đức Thế Tôn dạy rằng: “Vào ngày rằm tháng Bảy, ngày Tự tứ của chư Tăng sau ba tháng an cư nếu thiết lễ cúng dường trai tăng, thành tâm hồi hướng công đức thì sẽ cứu được cha mẹ khỏi cảnh khổ”.
Bấy giờ, Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật dạy, chí thành cúng dường mười phương Tăng. Với lòng thành kính và công đức của chúng Tăng, nhờ vậy mẹ ngài được thoát kiếp ngạ quỷ, sanh về cõi lành. Đức Phật dạy rằng: “Cũng như tảng đá nặng trăm cân, nhưng nếu nhiều người cùng khiêng thì có thể đưa đến bất cứ nơi nào”. Đức Phật lại dạy về cách báo hiếu trong kinh Tăng chi bộ I: “Nhưng này các Tỳ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với cha mẹ theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỳ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha”1.
Theo tinh thần ấy, nếu cha mẹ chưa có tín tâm đối với Tam bảo, cần khéo léo gieo trồng niềm tin nơi cha mẹ. Bởi tin vào Phật, Pháp và Tăng là cửa ngõ đầu tiên đưa người hữu duyên bước vào hành trình chuyển hóa và thăng hoa tâm linh. Khi người con có chánh tín nơi Tam bảo, siêng năng tu học, hành trì giới định tuệ, thì sự chuyển hóa ấy giúp cha mẹ dễ dàng phát khởi tín tâm, nương theo Chánh pháp mà hành trì. Từ đó, Vu lan trở thành ngày đại lễ trong truyền thống Phật giáo. Đây không chỉ là biểu tượng của lòng hiếu kính, mà còn nhấn mạnh về nhân quả, nghiệp báo. Qua câu chuyện ấy, Đức Phật dạy chúng ta rằng muốn báo hiếu chân thật, không chỉ bằng vật chất mà cần tu tập công đức, giữ gìn giới hạnh, phát tâm thiện lành, rồi hồi hướng cho cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp.
Khi Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, Ngài để lại lời di chúc tối hậu: “Y pháp bất y nhân”, nhưng để học được pháp, người học cần có thiện tri thức. Kinh Tương ưng bộ (Saṃyutta Nikāya) có đoạn: “Này các Tỳ-kheo, thiện hữu tri thức là toàn thể đời sống phạm hạnh.” (Kalyāṇamittatā sabbāva brahmacariyassa). Như thế, không thể thành tựu con đường phạm hạnh nếu không có bậc thầy hướng đạo. Đạo pháp không thể chỉ học qua sách, mà cần được sống cùng thầy, được thầy chỉ dạy để mỗi ngày một thăng tiến hơn. Như kinh Sa-môn quả (Samaññaphala Sutta, Trường bộ kinh), Đức Phật dạy: “Vị thầy huấn luyện đệ tử như người luyện vàng, lọc bỏ cặn bã, nung chảy và chế tác để trở thành bảo vật quý giá”.
Kinh Tăng chi bộ (Aṅguttara Nikāya), Đức Phật dạy: “Có bốn pháp người đệ tử cần thực hành để báo ân thầy: cung kính, tu tập, nghiêm trì giới hạnh và phát triển tâm linh”. (Cattāro dhammā – garuko ācariyaṁ maññeyya, abhibhāyanako bhāvanāya, sikkhāya, sikkhāpadāya). Hiếu là gốc của mọi công hạnh, là nền tảng của mọi thiện pháp. Hạnh hiếu đối với bậc thầy là sự tu học chân thật, hành trì nghiêm túc, và giữ giới thanh tịnh. Dù người xuất gia đã rời ngôi nhà thế tục, nhưng không hề rời xa hiếu đạo mà cần bồi đắp hai cội hiếu: hiếu với cha mẹ sinh thành và hiếu với bậc thầy, người đã truyền trao giới thân huệ mạng. Thầy là người khai mở tuệ giác, dẫn dắt trên con đường giải thoát.
Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, nhưng cũng là đạo của hiếu hạnh. Đức Phật từng dạy: “Hiếu thuận là nền tảng của đạo đức, là con đường dẫn đến giác ngộ”. Vu lan về, hoa hiếu hạnh lại nở rộ trong vườn tâm của người con Phật, hạnh ấy đối với các bậc ân sư luôn hiện lên như đóa sen thuần khiết, tỏa hương thanh tịnh từ lòng tri ơn, chí nguyện tu học và lý tưởng phụng sự Chánh pháp. Cúng dường các bậc Ân sư quý nhất không phải là phẩm vật, mà chính là sự trưởng thành trong tu tập, vững chãi nơi đạo hạnh và sự tiếp nối chí nguyện Bồ-đề của mỗi chúng đệ tử. Chỉ khi đó, mùa Vu lan mới thực sự trọn vẹn ý nghĩa, và ngọn đèn trí tuệ của Phật pháp mới được truyền thắp mãi mãi, soi sáng cho muôn loài.
Cánh đồng bát ngát mênh mông,
Hòa cùng pháp giới thênh không diệu kỳ.
Nhờ thầy dìu dẫn bước đi,
Chúng con lại được sớm khi về nhà.
(HT.Thích Nhật Quang)
Vu lan không phải là mùa của cảm xúc yếu mềm, mà của tuệ giác và sự trưởng thành tâm linh. Đây là dịp để chúng con nhớ ơn cha mẹ, đồng thời cũng tri ân các bậc Ân sư, những bậc thầy khả kính đã truyền trao giới thân huệ mạng, dìu dắt chúng con đi qua những tháng ngày sơ cơ của đời sống phạm hạnh. Con nguyện sẽ cố gắng tinh tấn tu học như lời thầy đinh ninh chỉ dạy, giữ gìn giới pháp để xứng đáng là người con Phật, là đệ tử của thầy.
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho các bậc Ân sư của chúng con thân tâm thường lạc, đạo thọ miên trường. Quý ngài mãi là ngọn hải đăng soi sáng nẻo về chánh đạo cho hàng hậu học vững bước tiến tu trên đường tìm về bến giác.
----------------------------
1 Hòa thượng Thích Minh Châu (2015), kinh Tăng chi bộ – Tập I, IV. Phẩm Tâm thăng bằng, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr.98-99.