Tháng Bảy tu phước báo hiếu

GN - Để báo hiếu cha mẹ, không gì bằng người làm việc từ thiện tu phước.

tu phuoc.jpg

I

“Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” - câu kinh Kim cang có nghĩa cần phải không trụ vào chỗ nào mới sinh ra tâm. Nhưng tiếp tục hỏi, vậy tâm thiện bố thí, làm phước được sinh ra từ đâu. Sẽ có người cho là câu hỏi bắt quàng, đang nói chuyện này bắt qua chuyện kia chẳng dính vô đâu. Thay vì trả lời bằng câu chữ để thấy sợi chỉ đỏ xuyên qua mọi lời Phật dạy qua những vấn đề khác nhau, đối tượng nghe cũng khác nhau. Xin kể một câu chuyện dân gian được Huỳnh Tịnh Của ghi lại trong chuyện giải buồn, có nhan đề “Ăn mày xin vàng”.

Có một người rất giàu và cũng rất hà tiện keo kiệt không làm phước cho ai bao giờ. Một hôm, có người ăn mày đến xin. Chẳng xin tiền hay xin gạo, xin món gì hết mà theo nằng nặc xin một nén vàng. Tay nhà giàu sai đầy tớ đuổi đi nhưng gã ăn mày không chịu đi mà cứ la lết trước cửa nhà lải nhải rất khó chịu… suốt ba năm trời. Tay nhà giàu nổi máu tò mò, dù sao nó cũng bỏ công nên chịu cho và sai tên đầy tớ theo dõi - gã ăn mày được nén vàng đi đâu và làm gì với nén vàng. Tên đầy tớ đi theo thấy tên ăn mày cầm nén vàng thảy lên thảy xuống nhảy nhót mừng rỡ. Lát sau đến bên gốc cây, chắc là mệt nên nằm xuống ngủ, tay cầm nén vàng để trên bụng. Đứa đầy tớ lén lấy lại nén vàng đem về trả cho chủ. Lát sau, lão ăn mày thức dậy thấy mất của, xăm xăm trở lại xin nén khác. Người nhà giàu nói: “Tui mới cho đây làm gì hết mà còn đi xin nữa vậy cha”. Lão ăn mày nói: “Tôi-vừa-nhắm-mắt, nó-liền-mất-đi, nên phải xin ông nén khác thôi”. Nghe nói, ông nhà giàu dường như được soi sáng tấm lòng, ngộ ra sự đời. Rõ ràng đời là ảo, con người ta hễ nhắm mắt rồi chẳng còn của cải sự nghiệp. Bắt đầu từ chỗ nhận thức của cải chỉ là ảo ảnh, tiếp đến là suy nghĩ về cái chết mình để lại gì. Anh nhà giàu bỗng ngộ, phát tâm đem tài sản của cải ra làm phước bù cho bản tánh keo kiệt trước đây. Suy nghĩ lại, mới hiểu người ăn mày ấy là Bụt hiện ra. Chỉ có Bụt mới thay đổi được suy nghĩ của những người bảo thủ nhất. Anh nhà giàu đúng là có duyên gặp được Bụt. Vậy có phải làm phước còn bắt đầu từ chỗ ưng vô sở trụ…

II

Niệm Phật và làm phước là hai pháp môn cần thiết để tu tâm, dưỡng tánh phù hợp với căn cơ nhiều người. Tưởng tu là khó, còn nói tu chỉ cần như vậy thì rất dễ. Có phải ta thường nghe người nói vậy. Đó là cái nhìn căn cứ vào việc làm bề ngoài, không đi sâu vào bên trong. Thấy sự việc đơn giản nhưng sự thật phải trải qua quá trình rèn luyện công phu. Thấy dễ thật ra là khó. Khó ở chỗ niệm Phật, mặc dù Đức Phật từ bi nhưng mọi chuyện lại là do nhân quả. Khó ở chỗ làm phước chỉ thấy vật chất của mình bỏ ra nhưng còn chữ phước, làm biết được mình có phước hay không, mặc dù có đem tiền triệu bố thí cúng dường. Phải chăng những việc làm của người chỉ có đôi mắt trí tuệ mới biết, ai thật sự là kẻ nhân đức có phước, đời này còn ở đời sau. Tưởng là dễ, thật ra làm phước, tu phước chẳng dễ chút nào với những ai thật sự có thiện tâm, thương người như thể thương thân. Kinh Phật đã nói hết, bố thí không hề đơn giản. Cất 100 ngôi chùa, chẳng bằng cứu sống một người. Mặc dù kinh luật nói từ ngàn xưa, y như nói với thời hiện tại. Bạn thấy nó dễ hay khó. Tâm lý con người phức tạp. Muốn cho nhưng lại nghĩ “cho hết, lấy gì để xài”. Đúng ra phải nghĩ ngược lại “xài hết, lấy gì bố thí”. Đức Phật với đôi mắt nhìn thấu suốt cả người ta nên trong kinh Niết-bàn, Ngài dạy, có ba việc bố thí không thanh tịnh: 1. Trước muốn cho nhiều, khi cho lại rút bớt. 2. Chọn vật xấu cho người, vật tốt giữ lại cho mình. 3. Đã cho xong, sinh tâm hối tiếc của đem cho. Chẳng những Đức Phật nói, giàu khó bố thí như nói ở phần trên, mà nghèo cũng khó bố thí. Khó vì đâu phải lúc nào mình cũng có sẵn để mang ra cho (thiện tâm của người chính là ở đây). Lúc nhỏ, tôi nhớ má tôi và một số người lớn ở quê, là dân miền Tây thấm nhuần văn hóa đạo Phật, mỗi khi xúc gạo nấu cơm, má bốc một hai nắm bỏ vô trong cái hũ. Má tôi dạy, buổi cơm thiếu một hai nắm gạo không sao, nhưng nhà lúc nào cũng có thứ để cho người đến xin. Nó gọi là tích âm đức. Ngày nay, không còn thấy cảnh ăn xin đeo bị bên hông để xin gạo như ngày xưa… mà xin tiền. Tôi thấy có người gặp tiền lẻ bỏ vô trong cái hộp để riêng ra dành cho những ai cơ khổ lỡ đường. Những người mặc dù chẳng khá giả nhưng có thiện tâm (tôi không được như vậy) rõ ràng là đã gieo nhân. Và gieo nhân thì gặt quả, mặc dù không biết kiếp sau người hưởng được quả gì, nhưng người thành hình đức tin vào luật nhân quả từng kiếp sống nối tiếp nhau và tiếp tục gieo.

III

Ta đã hưởng, đã chịu ơn nhiều của xã hội, việc bố thí, làm phước của ta dường như đó cũng là bổn phận của con người để góp phần (trả lại) rất nhiều người không biết việc mình làm là đã tu. Và trong nhiều pháp môn, có pháp môn chủ yếu thuộc về hành rất ít người phân tích (ai đem phân tích một mùi hương). Đó là pháp môn tu phước. Có phải nó bắt đầu từ nhận thức cõi đời là phù du như đã nói người sanh thiện tâm. Tiếp tục người tu phước cần phải giữ gìn năm giới. Tại sao? Tại vì không sát sanh là làm phước, bố thí tánh mạng cho tất cả chúng sanh lớn hoặc nhỏ. Không trộm cắp là bố thí sự an toàn, an lạc cho xã hội. Không tà dâm, không nói dối cũng như vậy. Uống rượu, dùng chất say sưa là nguồn gốc gây ra bao tội lỗi. Không uống rượu, dùng các chất say là mang đến cho xã hội niềm vui. Giữ  năm giới còn gọi là năm đại thí, hưởng quả báu không bị oan trái, không ai làm khổ mình, người ái mộ mình rồi có uy tín với xã hội. Trong lúc bố thí, ta cảm thấy không hài lòng ở người thọ thí (làm biếng chẳng chịu làm lụng chờ người tới cho v.v…), do đó người tu phước tiếp tục đồng hành với xả, đồng hành với sự hoan hỷ. Trong hai loại này, bố thí hoan hỷ bất cứ trường hợp nào, vì vậy phước đức cao hơn bố thí xả. Tu phước dễ hay khó. Dân gian có câu nói “Giúp của không giúp đũa ăn cơm”. Có nghĩa là anh đói tôi giúp cho tiền bạc, nhưng nghề nghiệp, cách làm ăn, thay vì chỉ vẽ, dạy cho người để người qua đó làm phương tiện biết cách sinh nhai thì lại giấu kín không chỉ. Chẳng ai chỉ đường đi buôn. Tương tự, trong kinh Phật có tài thí và pháp thí. Pháp thí được xếp cao hơn, cho thấy việc tu phước chẳng dễ. Theo kinh, Phật dạy vật đem bố thí có mười loại thường thấy như bố thí vật thực, nước uống, vải, xe cộ, bông hoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn v.v... Về miền Tây, ta thấy ở thôn quê trước cửa mỗi nhà để lu nước uống, hoặc là ở thành phố Hồ Chí Minh nhiều ngả đường thấy để thùng nước đá trà dành cho kẻ lỡ đường - đó là bố thí nước. Ngoài 10 loại vật thí thường thấy, kinh Phật còn dạy nhiều vật thí khác đem lại lợi ích cho cuộc sống, chẳng những cho kiếp hiện tại mà cho lẫn kiếp vị lai. Nhưng bài viết đến đây đã khá dài, xin phép được nói thêm cái gọi là trường cửu thí. Tức là bố thí làm phước những vật có tính bền vững lâu dài. Chừng nào nó còn tồn tại, thì phước thiện của người cũng ngày đêm tăng trưởng. Trường cửu thí có 6 loại: 1. Làm phước trồng cây ăn quả cho bóng mát. 2. Làm phước trồng cây gỗ quý, trồng rừng chẳng hạn. 3. Làm phước xây cầu để người qua lại. 4. Làm phước đào giếng lấy nước uống. 5. Làm phước xây nhà trọ cho dân nghèo, xây dựng sửa chữa chùa chiền. 6. Xây trường dạy nghề nuôi dưỡng người già, trẻ mồ côi.

Hiện tại, xã hội rất cần cái gọi là trường cửu thí như vậy.

IV

Làm phước, bố thí đứng đầu trong các pháp ba-la-mật và hỗ trợ cho các thiện pháp. Về giới hạnh của người thì hạnh hiếu đứng đầu. Tháng Bảy mưa sụt sùi, đất trời hắt hiu. Tháng này âm dương như xích lại gần với nhau. Người như cảm nhận được điều này nên tháng Bảy còn là tháng người hướng về nhau. Do đó, từ xưa, trong tháng Bảy có chuyện Ngưu Lang, Chức Nữ gặp nhau qua cầu Ô Thước. Tích ngài Mục Kiền Liên tìm mẹ. Tục lệ cúng cô hồn. Cũng không có gì lạ, ngày lễ kỷ niệm thương binh liệt sĩ, chiến sĩ trận vong cũng diễn ra trong tháng này. Nói về chữ hiếu, tất nhiên là con cái phải phụng dưỡng nuôi nấng cha mẹ đầy đủ món ngon vật lạ. Nhưng có thật là hiếu thảo không, khi cha mẹ vì món ngon vật lạ kia mà mặt phải xấu hổ cúi đầu xuống không dám nhìn lên. Hay là hiếu được đánh giá cao nhất là làm những điều để cho cha mẹ vui, xóm làng ngưỡng mộ.

Không biết tục lệ cúng cô hồn xuất phát từ đâu. Mới nhìn cho nó là dị đoan, xét kỹ mới thấy đó là nét văn hóa tinh tế của người phương Đông mang tính nhân văn tình thương trải rộng muôn loài, thập loại chúng sinh. Người đang sống nhớ tới bao vong hồn khác chết xiêu mồ lạc mả lang thang đầu đường xó chợ đói khát đợi người bố thí vào ngày này (mâm cúng cô hồn gồm có gạo muối, mía chặt khúc, áo giấy, cháo, bộ tam sên, bánh ú, bánh cấp. Sau khi cúng xong chủ nhà xả giàn cho đám con nít nhảy vô giành lấy đồ cúng). Lúc nhỏ, vào tháng Bảy, tôi thường hay theo bọn trẻ trong xóm đi cướp xả giàn. Rất là vui, nhưng tôi không hiểu hết ý nghĩa của nó, đôi khi bị người lớn mắng cho - đồ cô hồn sống. Mãi khi lớn lên nhớ lại thấy vui vui, chợt giật mình trước mấy tiếng cô hồn sống. Nó mang ý nghĩa không tốt đã đành, nhưng cô hồn sống đặc biệt với tiếng cô nghĩa là sự cô độc không biết nương tựa vào đâu. Có phải nó còn bao gồm những người đau yếu bệnh tật không tiền chữa trị, sống vất vưởng ở đâu đó nằm chờ chết. Có phải những đứa trẻ mồ côi lang thang đầu đường xó chợ kiếm miếng ăn. Có phải và có phải. Trong tháng Bảy, tình cờ tục cúng cô hồn trùng với lễ Vu lan với tích Mục Kiền Liên xuống địa ngục tìm cách cứu mẹ. Lần này hầu như ai cũng biết Bồ-tát Mục Kiền Liên, vì sự tích rất lôi cuốn hấp dẫn mà không để ý đến… chính sự cúng dường, làm phước để cứu bà Thanh Đề thoát khỏi địa ngục là hình thức báo hiếu cao nhất để xây dựng nên câu chuyện. Đó cũng chính là điều Đức Phật muốn dạy chúng ta.

Tới đây thì kết luận được rồi. Con cái có rất nhiều điều làm cho cha mẹ vui. Nhưng rõ ràng điều cha mẹ vui hơn cả là đứa con ăn nên làm ra của mình biết nghĩ đến người nghèo, người đau khổ xung quanh. Ý nghĩa là cha mẹ được hưởng phước từ thiện tâm của con cái mình sẽ được sống lâu (phước kia lớn vô cùng). Làm phước bố thí quanh năm nhưng đặc biệt tới tháng Bảy là tháng hội đủ những điều kiện để người tu phước thể hiện tấm lòng bố thí cúng dường. Rõ ràng, để báo hiếu cha mẹ, không gì bằng người làm việc từ thiện tu phước.

Long Xuyên, rằm tháng Bảy 2013

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày