Một thời Phật du hóa tại A-la-bệ Già-la, trong Hòa lâm. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo rằng:
- Thủ Trưởng giả có tám pháp vị tằng hữu. Những gì là tám? Thủ Trưởng giả có thiểu dục, có tín, có tàm, có quý, có tinh tấn, có niệm, có định, có tuệ.
…
5. Nói Thủ Trưởng giả có tinh tấn, là do nhân gì? Thủ Trưởng giả thường thực hành sự tinh tấn, trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp, có ý tưởng ngồi dậy, chuyên nhất và kiên cố, tạo gốc rễ thiện, không hề từ bỏ sự tinh cần. Nói Thủ Trưởng giả có tinh tấn, là nhân đó mà nói.
6. Nói Thủ Trưởng giả có niệm, là do nhân gì? Thủ Trưởng giả quán nội thân như thân, quán nội giác, nội tâm, nội pháp như pháp. Nói Thủ Trưởng giả có niệm, là nhân đó mà nói.
7. Nói Thủ Trưởng giả có định, là do nhân gì? Thủ Trưởng giả ly dục, ly ác bất thiện pháp, cho đến chứng đắc đệ Tứ thiền, thành tựu và an trụ. Nói Thủ Trưởng giả có định, là nhân đó mà nói.
8. Nói Thủ Trưởng giả có tuệ, là do nhân gì? Thủ Trưởng giả tu hành trí tuệ, quán sát sự hưng thịnh và suy tàn của các pháp; đạt được trí tuệ như vậy, Thánh tuệ minh đạt, phân biệt rõ ràng để hoàn toàn thoát khổ. Nói Thủ Trưởng giả có tuệ, là nhân đó mà nói.
Nói Thủ Trưởng giả có tám pháp vị tằng hữu, là nhân đó mà nói.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
(Kinh Trung A-hàm, phẩm Vị tằng hữu pháp, kinh Thủ Trưởng giả [II], số 41 [trích])
Ở trích đoạn trước, chúng ta đã đề cập đến các pháp vị tằng hữu, gồm: 1-có thiểu dục, 2-có tín, 3-có tàm, 4-có quý. Đoạn này, tiếp tục giới thiệu những pháp vị tằng hữu còn lại: 5-có tinh tấn, 6-có niệm, 7-có định, 8-có tuệ. Trong tám chi phần của pháp vị tằng hữu này, có mặt trọn vẹn của trợ đạo Ngũ căn (tín, tấn, niệm, định, tuệ) và phần cốt lõi của Bát Thánh đạo (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định). Thế nên, thực hành các pháp chưa từng có này là nền tảng để hướng đến thành tựu giác ngộ, giải thoát.
Tinh tấn là cố gắng đoạn trừ ác pháp, trau dồi thiện pháp; là nỗ lực dụng công tu hành. Thoạt nhìn, pháp này cũng không khó lắm nhưng khi đã dấn thân, cố gắng bền bỉ và kiên trì trên cả một lộ trình dài thì thật chẳng dễ dàng. Những ai duy trì được sự tinh tấn không ngừng nghỉ của sơ phát tâm thì thật hy hữu, vị tằng hữu.
Thực hành tứ niệm xứ, thiết lập chánh niệm thường trực. Nhờ niệm liên tục, tâm gắn chặt với các đề mục của tứ niệm xứ mà định phát sinh. Định ở đây chính xác là chứng đắc từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Bằng cách phát triển năm thiền chi (tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm) nhằm chuyển hóa và đoạn trừ năm triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo hối, nghi ngờ) để đạt đến nhất tâm thành tựu chánh định. Niệm và định là kết quả của quá trình công phu tu tập đúng đắn, bền bỉ, lâu dài. Vì thế, những ai tu tập và thành tựu niệm, định là hy hữu, vị tằng hữu.
Tuệ ở đây là minh sát, thấy rõ sự sinh diệt của các pháp. Thấy ra bản chất sinh diệt tương tục của các pháp để phá tan vô minh, sự lầm chấp nhiều đời về cái “tôi, của tôi và tự ngã của tôi” được chiếu soi và sáng tỏ. Ngay đây, hành giả đạt được sự giác ngộ, vượt thoát khổ đau sinh tử, là bậc giải thoát nên được gọi là chưa từng có, vị tằng hữu.