GNO - Sáng nay, 23-12 (17-11-Mậu Tuất), tại P.An Tây, TP.Huế, BTS GHPGVN tỉnh TT-Huế cùng toàn thể Tăng Ni, Phật tử vân tập khuôn viên bảo tháp Tổ sư Liễu Quán để tảo tháp và cùng nhau đảnh lễ tưởng niệm Tổ sư.
Tham dự dâng hương đảnh lễ có HT.Thích Giác Quang, Phó Thư ký HĐCM; chư tôn đức giáo phẩm Chứng minh BTS; HT.Thích Đức Thanh, UVTT HĐTS, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh TT-Huế cùng Tăng Ni các ban ngành trực thuộc, Tăng Ni các tự viện và Phật tử các giới.
Từ sáng sớm Tăng Ni, Phật tử vân tập núi Thiên Thai để tảo tháp
Tờ mờ sáng, Tăng Ni, Phật tử đã có mặt tại núi Thiên Thai, nơi tọa lạc bảo tháp Tổ sư Liễu Quán, cùng phát quang, tảo tháp.
Tiếp đó, chư tôn đức và quý Phật tử trang nghiêm đối trước bảo tháp cung tuyên tiểu sử, hành trạng của ngài - để con cháu truyền thừa nương theo trên bước đường học đạo.
Theo tiểu sử, Tổ sư Liễu Quán sinh năm 1670, tại làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, miền Trung nước Việt, trong một gia đình không mấy khá giả, ngài mồ côi mẹ khi vừa lên sáu tuổi.
Năm 1682, được 12 tuổi, theo cha đi chùa Hội Tôn lễ Phật, gặp thiền sư Tế Viên, ngài cảm mến và xin phụ thân xuất gia tại đây. Ngài rất được Thiền sư Tế Viên thương mến và hết lòng dạy dỗ.
Những năm hành điệu tại chùa Hội Viên, ngài chỉ làm những công việc nhỏ nhặt như gánh nước cũng như hai thời khóa công phu và luật tiểu Sa-di,...
Tu tập ở đây được chín năm thì Thiền sư Tế Viên viên tịch, ngài tròn 19 tuổi. Sau khi chu tất tang lễ của thầy, ngài từ giả huynh đệ đồng tu rồi một mình lên đường tìm thầy tiếp tục học đạo.
Năm 1690, vượt Trường Sơn ra đất Thuận Hóa, đầu sư với Tổ Giác Phong ở chùa Thiên Thọ, núi Hàm Long (tức Phật học đường Báo Quốc bây giờ). Được một năm thì phụ thân thọ bệnh, ngài xin phép được trở về nhà để săn sóc. Hàng ngày vào rừng lo đốn củi đổi gạo và thuốc men để chăm sóc cho phụ thân. Bốn năm sau, phụ thân mãn phần, lo tang chay và giao hết nhà cửa hương hỏa cho bà con quyến thuộc xong xuôi, ngài tiếp tục lên đường học đạo.
Năm 1695, nghe Thiền sư Thạch Liêm tổ chức giới đàn ở chùa Thiền Lâm, kinh đô Huế lúc bấy giờ, ngài xin cầu thọ Sa-di giới với đạo hiệu thượng Liễu hạ Quán, húy Thiệt Diệu, thuộc dòng Lâm tế chánh tông đời thứ 35.
Năm 1697, Thiền sư Từ Lâm làm Đường đầu Hòa thượng, ngài tròn 27 tuổi được tấn đàn Tỳ-kheo giới. Đắc giới xong, ngài ở lại đây hai năm để cầu học những giới pháp đã thọ chưa được thông suốt rồi lại tiếp tục tham cầu Phật pháp với các bậc tôn sư khắp nơi.
Năm 1672, ngài gặp Thiền sư Tử Dung tại chùa Ấn Tôn (tức tổ đình Từ Đàm bây giờ), ở núi Long Sơn - Huế. Sau nhiều năm học cùng Tổ, ngài đắc pháp và được truyền tâm pháp vào lúc ngài vừa 42 tuổi. Nếu thiền sư Chân Nguyên được xem là nhân vật chủ chốt để phục hoạt Phật giáo ở Đàng Ngoài (Chúa Trịnh), thì Tổ Liễu Quán là nhân vật quan trọng tiêu biểu cho công nghiệp phục hưng, xiển dương và trực tiếp lãnh đạo Phật giáo ở đàng Trong (Chúa Nguyễn).
Làm trang nghiêm chốn Tổ
Trước sau, ngài đã gặp và tham khảo cũng như được Tổ Tử Dung ấn chứng diệu pháp là ba lần: Lần thứ nhất năm 1702; Lần thứ hai năm 1708, lần này, Tổ Tử Dung ấn chứng cho ngài về sự đạt ngộ Chánh pháp của Phật và cũng là năm mà ngài khai sáng tổ đình Thuyền Tôn. Lần thứ ba vào năm 1712 tại đất Quảng Nam khi Tổ Tử Dung và ngài cùng dự lễ Toàn Viện, lần này ngài đã trình bài kệ Tắm Phật với Tổ.
Ngài đã lập nhiều đạo tràng để truyền giáo như :
- Tổ đình Thuyền Tôn ở núi Thiên Thai, xóm Ngũ Tây, huyện Hương Thủy vào năm 1708, nhưng mãi đến năm 1747, chúa Nguyễn Phúc Khoát mới ban biển sắc tứ cho chùa nầy; đồng thời, đại hồng chung đang được thờ tại đây cũng được đúc cùng năm này, tức là năm Cảnh Hưng thứ tám.
- Tổ đình Viên Thông sau lưng núi Ngự Bình (Chúa Nguyễn Phúc Khoát rất sùng kính uy đức và đạo hạnh của ngài, nhiều lần thỉnh ngài vào kinh để tham vấn giáo lý, ngài đều từ chối, vì không muốn dính líu sự lui tới ra vào với triều đình; do đó, chúa và quần thần hay vào tổ đình Viên Thông để hỏi đạo, nên núi này có tên là núi Ngự).
- Tổ đình Hội Tôn, tổ đình Cổ Lâm và tổ đình Bửu Tịnh ở Tuy Hòa, Phú Yên.
- Từ năm 1733 đến năm 1735, ngài đã mở liên tiếp ba Đại giới đàn để truyền trao giới pháp cho hàng xuất gia và tại gia. Trong những đại giới đàn này, ngài cung thỉnh các bậc cao tăng và tể quan cư sĩ ở Đế đô để chứng minh và ngoại hộ cho Phật pháp.
- Năm 1740, ngài làm Đường đầu Hòa thượng cho Đại giới đàn Long Hoa ở tổ đình Thuyền Tôn.
- Năm 1742, lúc này ngài đã 72 tuổi, vì sự nghiệp Phật pháp, ngài lại phải làm Đường đầu Hòa thượng cho Đại giới đàn tại tổ đình Viên Thông và có đến gần bốn ngàn người tại gia cũng như xuất gia phát nguyện thọ giới.
Một buổi sáng đẹp trời mùa đông năm 1742, nhằm ngày 21-11 âm lịch, tại tổ đình Viên Thông, ngài dạy đồ chúng đem bút mực ra để viết bài kệ như sau:
Thất thập dư niên thế giới trung,
Không không sắc sắc diệc dung thông,
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý,
Hà tất bôn mang vấn tổ tông?
Nghĩa là :
Ngoài bảy mươi năm trong thế giới,
Không không, sắc sắc đã dung thông,
Hôm nay nguyện mãn về chốn cũ,
Nào phải ân cần hỏi tổ tông?
Sau khi, ngài làm bài kệ xong, dùng trà thì đại chúng đảnh lễ và đứng hầu quanh ngài. Trong chúng có vị khóc thành tiếng, ngài dạy:
- “Quý vị đừng khóc. Chư Phật thị hiện còn nhập Niết-bàn, còn tôi (tức là ngài Liễu Quán) thì đường đi nẻo về đã rõ ràng, không việc gì mà phải khóc...”.
Mọi người đều im lặng. Ngài căn dặn và tâm sự cùng đồ chúng một hồi lâu, ngài hỏi :
- “Đã đến giờ Mùi chưa?”.
Chúng đáp :
- Dạ, vừa đúng.
Ngài dạy :
- “Sau khi tôi đã đi rồi, quý vị phải nghỉ đến sự vô thường nhanh chóng của cuộc đời mà siêng năng tu tập trí huệ, chớ nên quên lời dặn của tôi”.
Ngài dặn dò xong, thân ngồi kiết-già và nhắm mắt thị tịch. Chúa Nguyễn Phúc Khoát sắc làm bia ký và dựng tháp phụng thờ ngài trên núi Thiên Thai cạnh tổ đình Thuyền Tôn, xóm Ngũ Tây với thụy hiệu: Đạo Hạnh Thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng.
Tháp của ngài được xây gần tổ đình Thuyền Tôn, trên núi Thiên Thai. Trước khi ngài viên tịch, ngài phú pháp cho hàng đệ tử và truyền kệ như sau:
Thiệt tế đại đạo,
Tánh hải thanh trừng,
Tâm nguyên quảng nhuận,
Đức bổn từ phong,
Giới định phước tuệ,
Thể dụng viên thông,
Vĩnh siêu trí quả,
Mật khế thành công,
Truyền trì diệu lý,
Diễn xướng chánh tông,
Hành giải tương ưng,
Đạt ngộ chơn không.
Chư tôn đức niệm hương cúng dường
Nhất tâm đảnh lễ Tổ sư
Tổ sư Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một tông phái đặc thù và linh động, có một nền móng vững chắc ở Dàng Trong (tức là từ Thanh Hóa trở vào). Trước khi Tổ Liễu Quán xuất hiện, thiền phái Lâm Tế ảnh hưởng của Trung Quốc (vì có ngài Nguyên Thiều, ngài Thạch Liêm, ngài Tử Dung,...). Chính Tổ Liễu Quán đã Việt hóa tất cả từ văn hóa, kiến trúc và nghi lễ,...
Ngài có bốn vị đệ tử lớn: Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu. Bốn ngài này đã tạo lập bốn trung tâm hoằng dương Chánh pháp lớn khắp đó đây ở Đàng Trong. Và, từ thế kỷ thứ 18 trở về sau này nghiễm nhiên với danh xưng Thiền phái Liễu Quán.
Hữu nhiễu Bảo tháp
Đối trước tháp Tổ lắng nghe tiểu sử và hành trạng Tổ sư khai sáng dòng thiền Liễu Quán
Sau khi cung tuyên tiểu sử, trong không khí trang nghiêm, tịch tịnh giữa núi rừng Thiên Thai. Toàn thể đệ tử Tổ sư niệm hương đảnh lễ cúng dường và hữu nhiễu bảo tháp.
Quảng Điền