Vài dòng cảm nghĩ về “Hương Thiền ngàn năm"

Vài dòng cảm nghĩ về “Hương Thiền ngàn năm"
Giác Ngộ - Tôi ngạc nhiên và sung sướng khi được nhà thơ Trần Quê Hương trao cho bản thảo tập Hương Thiền ngàn năm. Nói là "ngạc nhiên" vì từ non 80 năm nay, nhiều thế hệ tao nhân mặc khách, học giả thi nhân đã đầu tư không ít công sức vào việc dịch những áng thơ kỳ diệu của hai triều đại Lý, Trần - một mảng tác phẩm rất "đời", thấm đẫm tinh thần tự cường tự chủ, dạt dào lòng tự hào dân tộc và một mảng sáng tác rất "đạo" thấm đẫm chất nhân văn, đưa người đọc vào thế giới tinh thần tuyệt đối vô trùng, cùng hướng tới vầng sáng lung linh của "chân - thiện - mỹ".

Nói đến mảng thứ hai - giới nghiên cứu quen gọi là "Thơ Thiền Lý - Trần", tôi nghĩ đến thành tựu dịch thuật của các vị Thiền sư, Hòa thượng như Mật Thể, Thanh Từ, Nhất Hạnh, Thanh Kiểm…của các bậc túc nho như Ngô Tất Tố, Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình, Nguyễn Đổng Chi, Hoa Bằng…của các nhà thơ Hán học uyên thâm như Nam Trân, Hoàng Trung Thông… Vài mươi năm gần đây, các nhà nghiên cứu đương đại như Nguyễn Huệ Chi, Phạm Trí Châu, Kiều Thu Hoạch, Ngô Đức Thọ, Đỗ Văn Hỷ, Băng Thanh... cũng đã có những cống hiến đáng quý.

Và giờ đây, đến sự góp sức của nhà thơ Trần Quê Hương. Có chậm quá chăng? Tôi ngờ là không. Bởi lẽ, với quốc bảo vô giá như mảng thơ này, chắc chắn bây giờ và mai sau sẽ có không ít người tiếp tục chăm chút, điểm tô cho nó để nó trở thành người bạn đồng hành với nhân dân.

Nói là "sung sướng", vì thấy ông đã chọn một hướng đi mới để tiếp cận với thơ Thiền Lý, Trần và để người yêu thơ - đặc biệt là đông đảo công chúng bình dân dễ dàng đến và nhớ, quen và yêu những sáng tạo tinh thần cao vời, sâu thẳm của tiền nhân: ông đã chuyển tất cả sang thơ lục bát - thể thơ truyền thống đã ngàn năm thân thương quen thuộc với muôn triệu người đọc Việt - từ những nông dân áo vải đến các bậc đại khoa bác học.

Chuyển thơ ngũ ngôn, thất ngôn đã khó; chuyển "phú"- như Vịnh Vân Yên tự phú của Thiền sư Huyền Quang, một loại hình văn xuôi giàu chất thơ sang lục bát càng khó hơn. Thậm chí đến các bài văn xuôi ý nghĩa thâm viễn như các bài tựa sách của vị Thiền sư- Hoàng đế - Anh hùng dân tộc Trần Thái Tông (Thiền tông chỉ nam tự, Kim Cương Tam Muội kinh tự) sang được thể thơ bình dị này thì quả là thiên nan vạn nan.

Chấp nhận những thách thức dễ thương nhưng khó vượt đó, nhà thơ Trần Quê Hương đã lặng lẽ lên đường. Lặng lẽ nhưng không đơn độc, vì luôn ở trong tim ông - ta có căn cứ để tin - ngụt cháy lòng sùng đạo và tình yêu thơ.

Ông đã tâm sự với người đọc "dù cố gắng nhưng không thể nào diễn đạt được hết thâm nghĩa vi diệu và uyên áo, những cảm hứng siêu thoát trong các tác phẩm của chư vị Tổ sư, Thiền sư. Trong phần chuyển thơ lục bát, chắc chắn sẽ không tránh ít nhiều nhầm lẫn". Với bản chất khiêm tốn của mình, Hòa thượng - thi sĩ Trần Quê Hương (pháp danh Thích Giác Toàn) đã hơi quá lời. Có thể tìm thấy trong 120 bài thơ văn trong tập Hương Thiền ngàn năm không ít bài đã được chuyển thơ thanh thoát, ý vị.

Chẳng hạn bản dịch từ một kiệt tác của Thiền sư Không Lộ: bài tứ tuyệt Ngôn hoài. Nguyên tác như sau:

Trạch đắc long xà khả địa cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.

Bản dịch với một chút phóng bút:

Chọn nơi linh địa an cư
Ngày ngày vui thú hương từ tình quê
Chiều nhàn hướng đỉnh sơn khê
Ngân dài một tiếng tái tê đất trời.

Một bài thơ khác - Tặng sĩ đồ đệ tử (tặng con em làm quan) của Thiền sư Huyền Quang:

Phú quý phù vân trì vị đáo
Quan âm lưu thủy cấp tương thôi
Hà như tiểu ẩm lâm tuyền hạ
Nhất tháp tùng phong, trà nhất bôi.

Bản dịch, cũng với một chút phóng bút:

Giàu sang như áng mây trời
Tháng ngày lặng lẽ cuộc đời qua nhanh
Chi bằng rừng suối ẩn danh
Giường thiền mát mẻ, trà thanh ấm lòng.

Vẻ đẹp tuyệt vời của hai viên ngọc thơ vẫn được bảo toàn. Người đọc vẫn cảm nhận đầy đủ tâm thế của hai vị Thiền sư khả kính. Các vị đã rũ bỏ mọi phiền trọc của cõi vô thường, tuyệt nhiên không bị ảnh hưởng bởi "thất tình, lục dục", xác định cho mình một phong cách sống an nhiên tự tại, để rồi khai phóng đến tận cùng trí tuệ tâm linh.

Ở trên chúng tôi đã dùng không phải tình cờ hai lần từ "phóng bút". Vâng, đây có lẽ là sự dụng tâm đầy ý thức của nhà thơ Trần Quê Hương. Vì vậy, trong không ít trường hợp ông không bị ràng buộc bởi số câu. Điều chủ yếu ông nhắm tới có lẽ là muốn chuyển tải một cách dung dị, dễ nhớ thần thái của nguyên tác. Điều thú vị là có sự gặp gỡ tình cờ giữa ông và một số dịch giả khác. Chẳng hạn, hai câu thơ của Khuông Việt đại sư. Người xưa thuật lại, một hôm có người học trò là Đa Bảo hỏi thầy về sự khởi đầu (thủy) và kết thúc (chung) của việc học đạo. Thay vì diễn giả dài dòng, vị Thiền sư đáng kính đã đọc hai câu:

Thủy chung vô vật diệu hư không
Hội đắc chân như thể tự đồng.

Người định nhấn mạnh: vạn vật đồng nhất với cái bản thể vũ trụ (chân như). Nó trường tồn, không có bắt đầu và cũng không có kết thúc. Từ hai câu thất ngôn đó, giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã chuyển thành 4 câu ngũ ngôn:

Sau trước có gì đâu
Hư không mới nhiệm mầu
Chân như bằng hiểu được
Tâm thể cũng như nhau.

Nhà thơ Trần Quê Hương chuyển sang 3 cặp câu (6 dòng) thơ lục bát:

Trước sau không vật không hình
Chân như tương hội, lý tình đều không
Ma ha Bát nhã tương đồng
Chân như thể nhập như không một nhà
Nam mô Bát nhã Ma ha
Mười phương pháp giới một nhà hư không.

Có thể băn khoăn về sự phóng túng của bản dịch, nhưng dễ dàng thống nhất với nhau: ý tưởng cao vời của nguyên tác vẫn được dịch giả nhất mực tôn trọng.

Tôi hoàn toàn chia sẻ với sự băn khoăn, trăn trở của nhà thơ Trần Quê Hương khi ông nói đến khả năng đây đó việc chuyển thơ ông đang làm một cách say mê có thể rơi vào tình trạng "nhầm lẫn, non kém". Quả là để đạt đến cái ngưỡng của chuẩn mực "tín, đạt, nhã" chắc chắn ông còn phải tiếp tục gia công.

Tôi tin, trong những ngày tới, khi có đôi khoảnh khắc thư nhàn hiếm hoi chen giữa một chuỗi Phật sự chất chồng và những hoạt động xã hội dồn dập, nhà thơ sẽ tiếp tục tự nguyện "hành hạ" mình để có những áng thơ dịch đẹp hơn, chinh phục người đọc hơn. Tôi tin như thế.

Còn giờ đây, xin những người yêu thơ chúng ta hãy cùng nhà thơ Trần Quê Hương ngược dòng một thiên kỷ lịch sử, thăm lại khu thượng uyển thi ca của tổ tiên, để cùng hòa mình trong hương thơm cao quý của mảng thơ Thiền và để trân trọng một phương cách chân thành kỷ niệm Đại lễ ngàn năm Thăng Long - Hà Nội, khiêm cung bình dị nhưng rất văn hóa, sang trọng; không phô trương hình thức mà rất có chiều sâu của vị Hòa thượng - thi sĩ quý mến của chúng ta.

Trụ Vũ (Hương Thiền ngàn năm Trần Quê Hương bút)

Hương trầm vi mật cõi Nam phương
Thiền tọa trang nghiêm tự cúng dường
Ngàn đóa kim liên xanh hạ nguyệt
Năm cành hà diệp biếc thu sương
Trần nay dẫu vắng lời Linh thoại
Quê cũ còn nghe tiếng Hải đường
Hương mật trầm vi Âu lạc điệu
Bút hoa lục bát đẹp thần chương.

Y Sa (Hương Thiền ngàn năm Kính tặng tác giả nhà thơ Trần Quê Hương )

Hương thiền rót giữa ngàn năm
Có chi cuộc hẹn thăng trầm đầy vơi
Qua đây đất đất trời trời
Qua đây ta với cuộc chơi vô thường
Qua đây nẻo nẻo đường đường
Qua đây ta với vô thường cuộc chơi.

Phạm Thiên Thư (Hương Thiền Kính tặng Thiền sư Thích Giác Toàn)

Đêm miền Nam gió xanh
Cảnh chùa thiền sư viết
Hương thiền ngàn năm bay
Lục bát thơm Cổ Pháp.
Thân như ánh chớp vậy
Chùa nay hoa lại hoa
Ngàn năm giọt sương cũ
Vạn Hạnh vẫn thềm qua!
Viên Chiếu - viền trăng chiếu
Chiếu chiếu - tâm vẫn tâm
Đêm nửa vườn Lan Nhã
Tụng thơ - giọt sương ngâm
Huyền Quang - huyền huyền mãi
Yên Tử - trúc không tâm
Lâm lâm yên yên tại
Giác Toàn - toàn thuyền âm.
Đêm nay trời tịnh xá
Trăng vằng vặc hoa vàng
Hạt sương thơm thoảng ngát
Hương thiền ngàn năm vang.

Thảo am Động Hoa Vàng, 5-5-2010

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày