I. Về một căn bệnh thời đại
So sánh giữa hai giai đoạn, lúc xã hội khép cửa hạn chế chùa chiền, nhiều sư thầy bao nhiêu năm tu hành phải chở tượng Phật, chuông mõ trở về nhà tu chui. Rồi có thầy hoàn tục. Xã hội ngày nay hiểu biết hơn, giống như con ngựa được mở miếng vải che hai bên mắt tự do nhìn xung quanh. Đời sống cũng sung túc lên. Vui sao chùa chiền, tịnh xá, am thất mọc lên như nấm sau mưa, chùa nào cũng thênh thang (thậm chí nhiều nơi như An Giang chẳng hạn, có nhiều ngôi chùa bỏ hoang nhưng không có sư, lại đi lo xây dựng chùa mới). Về kinh sách, băng thuyết pháp trước đây như là lén lút lưu giữ cất giấu còn được số ít, dè dặt chuyền tay nhau. Ngược lại ngày nay kinh sách được in ra tràn lan, có kiểm duyệt mà như không có kiểm duyệt mua rất dễ dàng. Bước vô nhà sách giống đi lạc vô khu rừng, trăm hoa đua nở. Bên cạnh sách cổ, sách dịch của mấy vị Hòa thượng tên tuổi, người đã nghe danh từ lâu còn có các thầy, các cư sĩ mới nổi lên gần đây. Điều đặc biệt chân lý chỉ có một như ngón tay chỉ mặt trăng nhưng ai cũng nói ngón tay mình là chân lý. Thiền vụt mở ra đến hơn trăm loại, cái gì cũng được gọi là thiền nhưng bản chất của nó là gì rất khó định nghĩa. Người nói muốn đạt tới thiền phải cắt đứt bỏ hết tư tưởng. Người khác rất đơn giản chỉ cần luôn nở nụ cười với xung quanh. Hay là cử chỉ thân mật với ai đó cũng gọi là thiền. Đức Phật thấu suốt việc thịnh suy lẽ vô thường, trước hay sau Phật vẫn yên lặng (chúng ta hãy đứng trước tượng Phật quan sát, hình như thấy Đức Từ Phụ như đang mỉm cười). Riêng với thời đại chúng ta thấy gì, ở đây có điều muốn trao đổi. Có phải con người chẳng hề đơn giản với tham, sân, si, biện (hộ), nghi (hoặc), thành (kiến), thủ (chấp) là bảy thứ chướng ngại dẫn đến tính cách rồi thành ra cái gọi là số phận con người. Trong bảy chướng ngại thì tham, sân, si hay được nói đến vì nó lớn, dễ thấy, dễ trừ. Biện, nghi, kiến, thủ, xem như nhỏ không chú ý nên khó trừ. Giống như sửa chữa chiếc thuyền, chỉ lo vá mấy lỗ thủng lớn, thường bỏ sót những chỗ con hà đục ván mấy lỗ nho nhỏ. Do đó thuyền ra khơi mang theo những nho nhỏ như vậy để rồi không đến bờ, gặp sóng gió to thuyền trôi nổi không chịu đựng được.
Ít người ngờ và thấy biện, nghi, kiến, thủ những điều lặt vặt ấy đưa người đến chỗ tự mãn, tự phụ, kiêu ngạo, không tin ai. Về phần bên B, thay vì rộng lượng bao dung ai chẳng có sơ sót, lầm lẫn nhưng cũng vì biện, nghi, kiến, thủ nên cũng không phục, thay vì hóa giải nó lại trở thành oan trái kéo dài. Nhiều người như vậy nên xã hội luôn xáo trộn, kỳ thị, phe đảng… chẳng mấy lúc được thanh thản. Rất khó lòng liệt kê hết những tệ nạn sinh ra từ biện, nghi, kiến, thủ. Đây cũng là căn bệnh trầm kha của thế giới, chiến tranh xảy ra do lòng tham và nguyên do nữa là ở đâu, chắc chúng ta đã biết (chẳng hạn như cuộc chiến của Hồi giáo). Trở lại với vấn đề của đạo Phật. Một thời cho người vẻ bề ngoài nguội lạnh, nhưng trong tro tàn có ủ lửa. Có thiện, có tin ba ngôi Tam bảo Phật, Pháp, Tăng. Ngược lại người ngày nay thiện thì có nhưng tin thì sao với ba ngôi Tam bảo. Chùa chiền mọc lên mở rộng đón mọi người nhưng biết có tu hay không... hay đó là hình thức bên ngoài. Dường như còn nói với Đức Phật - Bạch Thế Tôn, nhiệm vụ Thế Tôn đã xong xin hãy ngồi yên đó. Đã đành xưa kia Thế Tôn có dạy cuộc đời vô thường chớ nên phô trương nhưng nếu không phô trương thì chẳng có ai lui gót tới thiền môn. Hình như chạy theo số lượng không chú trọng đến chất lượng. Trong số đông người đi chùa lại có người vì tin chùa giàu nghèo, vì cũng có Phật mới đi chớ không tin ở thầy. Và cũng khá đông trong lý lịch ghi là theo đạo Phật nhưng chẳng bao giờ đi chùa do hoang mang, chẳng những nghi ngờ thầy mà nghi Phật xuất hiện mọi nơi nhưng không phải Phật nơi nào cũng có mặt luôn. Như vậy, ta có thể mạnh dạn nói thật điều này. Bên ngoài xum xuê vạn tượng, có phải bên trong do biện, nghi, kiến, thủ ngầm đẩy người xa nhau, càng nặng thêm khi thị trường kinh sách, băng giảng được tự do. Thay vì đi tìm đến đạo đức người cần phải có thầy hướng dẫn theo dõi từ thấp lên cao. Không thầy đố mày làm nên. Người không cần tự mua kinh sách về tìm hiểu, tự tu độc giác không cần trao đổi hỏi han ai. Đạo Phật có ưu điểm tự do dân chủ hơn các tôn giáo khác, thầy giảng sao cũng được, người nghe được gì tùy theo căn cơ nhưng đây cũng là huyệt điểm gót chân Asin. Không có thầy hướng dẫn tự mua kinh sách về đọc tiếp thu nhiều quan điểm nói ngược, nói xuôi nên không ít kẻ bị tẩu hỏa nhập ma. Miệng nói huyên thuyên đạo pháp mà không biết mình đang nói gì, nói mà không hành. Còn không thì trở nên cao ngạo thay vì nhìn vô chân tâm mình lại hướng ra xem thường xung quanh, phê phán chỉ trích người khác.
Những ai quan tâm đến tiền đồ Phật giáo chắc cũng thấy được, so với ngày trước người ngày nay trình độ được nâng cao nhưng bản ngã trái lại nặng nề hơn. Câu hỏi này chắc chúng ta tự tìm lấy câu trả lời, Phật từ xưa cũng có nhắc nhở.
II. Từ lời Phật dạy
Với con mắt thấu suốt các cõi, Phật đã nhìn thấy mọi việc rõ ràng. Phật là bậc thầy về tâm lý, nên với căn bệnh nói trên Ngài đã đưa ra nhiều phương thuốc chữa trị. Trước hết Phật dạy bốn phép nương tựa gọi là Tứ y cứ. Gồm có - y pháp bất y nhân - y nghĩa bất y ngữ - y kinh liễu nghĩa, bất y kinh liễu nghĩa - y trí bất y thức. Đạo pháp được truyền nhiều đời, truyền qua nhiều thầy dạy, chắc chắn nó không tránh khỏi sai lầm, thiếu sót. Nhờ có bốn phép nương tựa người biết hướng đôi mắt mình về đâu. Nó là thước đo quan trọng phẩm chất của người tu nhưng hình như ít ai chú ý đến thước đo này. Quý thầy dường như mãi lo những gì trừu tượng cũng quên lãng phân tích thấu đáo cặn kẽ tứ y cứ rất là thiết thực với cuộc đời. Trong kinh còn có ghi lại một chuyện. Một hôm, Phật du hành tới thành phố Kesaputa. Nhiều người nghe tin kéo tới thăm Phật rồi thưa "Bạch Đức Thế Tôn, có nhiều Bà la môn, nhiều ẩn sĩ cũng đến đây. Họ thuyết giảng lung tung rồi bài xích kẻ khác. Chúng con hoài nghi hoang mang không biết ai nói sai, ai nói đúng sự thật". Đại loại như thế. Lúc ấy Đức Phật hiền từ đưa ra lời khuyên. "Phải đấy các con, rất đáng là hoài nghi. Các con đừng bị lôi cuốn trước lời nói, hay nghe lời kể lại, lời đồn. Hay bị uy quyền của kinh điển dẫn dắt. Hay những gì có vẻ đáng tin ai đó nói ta mới là thầy của các con. Nhưng chính con, con phải tự biết cái gì sai, xấu để xa lánh. Bất cứ ai nói gì hễ nó thiện, nó tốt thì hãy nghe và chấp nhận". Như vậy chúng ta thấy Phật rất là công bình, Phật không tự xưng mình là hay rồi phê phán, chỉ trích kẻ khác. Phật đã giải tỏa cho ta nỗi hoang mang hoài nghi, nó tuy không phải là cái tội nhưng nó dẫn người tới chỗ vô minh ngã chấp. Nếu không vứt bỏ thì không thể đi xa. Đi xa mà vẫn không va chạm tới kẻ khác. Thật là độc đáo trong lịch sử tôn giáo, tín ngưỡng thế giới.
Chẳng có một vị giáo chủ nào như Đức Phật khi Ngài dạy thêm "Cũng cần xét đoán ngay cả Như Lai để hoàn toàn tin chắc giá trị của một vị thầy mà mình đang theo". Lời khuyên của Đức Phật có thể coi đó là thông điệp của đạo. Hoàn toàn tự do để tìm con đường giải thoát đồng thời cũng dân chủ không bài xích người khác quan điểm. Đạo Phật hoàn toàn không có việc mới chuộng cũ vong, không có việc gặp sư phụ mới thấy sướng quá trở qua chê sư phụ ở núi cũ quê mùa.
III. Đến vị thuốc Thường Bất Khinh
Những lời Đức Phật khuyên không phải đệ tử bên dưới hiểu hết, chấm dứt thành kiến nghi ngờ. Nếu xét kỹ đây không có tội lỗi gì lớn chẳng qua do ngã chấp đeo bám vào thành kiến. Tâm, thân, ý không được thanh tịnh là vì vậy. Đức Phật rất tinh tế nhìn biểu hiện bên ngoài nhận ra ta từ sâu thẳm bên trong. Để minh họa, liên hệ thực tế với những gì đã dạy Phật thuật lại chuyện Thường Bất Khinh. Hình ảnh của Bồ tát Thường Bất Khinh tạo cho người cảm xúc mãnh liệt và nghe gần gũi với cuộc sống bất cứ thời đại nào. Thường bất khinh có nghĩa là không dám xem thường. Theo câu chuyện kể sau khi Như Lai nhập diệt lần đầu tiên, vẫn còn trong thời tượng pháp. Nhưng thật rùng mình lúc đó vẫn có nhiều vị Tỳ kheo mạn thượng, thế lực lại rất lớn. Không tu mà cho mình tu, không chứng ngộ cho là chứng ngộ, không giữ đạo hạnh giới luật, lôi kéo tín đồ nhẹ dạ, chia rẽ nội bộ. Nhưng có một vị Tỳ kheo khi gặp những người ấy, vẫn chắp tay tán thán "Tôi không dám khinh thường các vị, tất cả rồi ai cũng sẽ thành Phật. Các vị cũng sẽ thành Phật". Nghe những lời tán thán ấy, do tâm bất tịnh, lại làm việc xui quấy nhiều kẻ đâm ra nhột nhạt, không biết đây có phải là lời nói thật, nên họ nổi giận "Ông là ai, làm sao biết ta sẽ thành Phật. Ta không cần lời nói hư vọng". Qua bao năm vị Bồ tát cứ như vậy chẳng những bị thiên hạ chưởi mắng, còn bị đánh bằng gậy, bị ném đá xua đuổi, Bồ tát vẫn một mực. Gặp ai khoác áo tu hành cũng đều tán thán "Rồi đây ai cũng sẽ thành Phật". Vì cứ nói mãi như vậy nên những kẻ kiêu mạn đặt cho Bồ tát biệt hiệu Thường Bất Khinh: Ngài là vị Bồ tát đặc biệt trong hội Pháp Hoa và làm pháp hội sáng ngời lên hoa pháp diệu diệu thâm thâm. Ai có đọc kinh này chắc là cũng hiểu Bồ tát Thường Bất Khinh nhờ có mấy đức tính - đức tin - nhẫn nhục, chân thật không khinh, do đó Bồ tát nổi lên qua bốn mặt. Tín, Trí, Hạnh, Quả. Tín là niềm tin vào pháp, vào con người. Trí chân thật để hiểu mình và hết thảy chúng sinh đều có sẵn Phật tính. Niềm tin và trí huệ dẫn tới hạnh nguyện dù bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào, bất cứ gặp ai cũng nói điều thiện, điều tốt lành, ca ngợi "Tôi luôn tôn trọng quý vị không dám xem thường. Tại sao. Tại vì tất cả, rồi quý vị ai cũng sẽ thành Phật". Vào quả chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Bồ tát Thường Bất Khinh của ngày xưa và ngài còn được gặp nhiều vị Phật nữa. Từ trong kinh điển chúng ta liên tưởng đến thực tại.
Thời đại ngày nay chúng ta học tập gì qua hình ảnh Bồ tát Thường Bất Khinh. Có phải thời đại của chúng ta đang mắc căn bệnh trầm kha như đã nói ở phần mở đầu. Một thời đại đầy xáo trộn chạy theo vật chất, nghèo giàu xa cách, tri thức cao ngạo ích kỷ tham lam. Khoa học kỹ thuật tìm đến từng nhà đầy đủ tiện nghi để rồi người như sống trong ốc đảo, nhà ai nấy biết chẳng ai đi lại. Đây là những tháng ngày con người mang đầy thành kiến nghi ngờ lẫn nhau. Chính chúng ta cũng có tham vọng làm thức tỉnh người khác ra khỏi sự mê muội bằng cách phê phán. Có thể người sẽ giật mình khi nghe những lời nói nghiêm khắc "Tại sao sống tham lam, ích kỷ, bộ không nghĩ đến cái chết, chẳng có gì tồn tại ở đời này". Nhưng cách này chỉ hiệu quả với một số người thôi, giống như nhà tù mở ra tưởng để răn đe, cuối cùng nhà tù nào cũng đầy tội nhân. Qua Bồ tát Thường Bất Khinh, hình ảnh ngài nó có vẻ nghịch lý nhưng chúng ta vẫn học ở ngài. Thay vì tham vọng ta học theo ngài sự vững chãi niềm tin, chân thật, nhẫn nhục, bất khinh. Ta xuôi theo dòng tự nhiên, sự vận hành tâm lý bình thường của con người. Sự thân ái khen ngợi bao giờ cũng thích hợp hơn là chỉ trích (nhất là với những người ít được ai khen). Trong y học người ta biết tới nhiều trường hợp một số mắc bệnh ung thư sau một thời gian trở lại khám bác sĩ ngạc nhiên thấy khối u tự nhiên biến mất. Hỏi ra mới biết thay vì buồn rầu người bệnh trái lại vui tươi quên mình, đi lo giúp đỡ những kẻ cùng hoàn cảnh. Ở ngành giáo dục cũng đã bắt đầu nhận ra, trong việc phát triển trẻ em sự khen ngợi có hiệu quả hơn là sự trừng phạt. Lời khen làm người có cảm giác hạnh phúc mở rộng tâm hồn. Tâm hồn người dù có đóng chặt cửa như thế nào sự gần gũi chân thật động viên rồi cũng sẽ mở rộng đón lấy Phật tính.
Mỗi năm có một mùa xuân về nhưng do cuộc đời đầy trái ngang buồn phiền, thành kiến, hành xử của ta nên mùa xuân gượng gạo không được vui. Nhưng nếu chúng ta quy y theo Pháp Hoa hạnh của Bồ tát Thường Bất Khinh, tâm thức thành kiến ta cởi bỏ hết, nhẹ nhàng như đóa sen nở, người cùng nhau sống hòa điệu thế giới bất khinh. Có phải đây là vị thuốc chữa tâm bệnh cho chúng ta để rồi thay vì mỗi năm đón một lần xuân về, nay bốn mùa đều là mùa xuân vui không tàn phai.