35 năm Phương xứ hành

tho tqh.jpg

GN - 1.

Việt Nam văn hiến Rồng Tiên

Bốn ngàn năm, dấu ấn thiêng Lạc Hồng

Long Quân - Âu Cơ khai dòng

Hùng Vương dựng nước, non sông bi hùng.

Trần gian thế giới trời chung

Một bầu khí quyển… ta cùng sống vui

Đất bằng vạn vật xinh tươi

Cỏ cây hoa trái, ngọt bùi hòa chan.

Hy-mã-lạp-sơn – sông Hằng

Trái tim huyền sử, ánh trăng nhiệm mầu.

2.

Đức Phật Thích Ca khởi đầu

Truyền lưu Chánh pháp mật đào hoằng dương

Một phương lan tỏa mười phương

Ca-tỳ-la-vệ chiếu gương sáng ngời

Bồ Đề Đạo Tràng cao ngôi

Vườn Lộc Uyển độ Năm Người đại duyên

Câu-thi-na Niết-bàn thiền

Sa-la Song thọ hương thiên ngát trời!

Hăm lăm thế kỷ dần trôi

Đạo vàng nhuận rạng tuyệt vời sen thiêng.

3.

Ấn - Việt nối dòng pháp duyên

Hai ngàn năm, kết mối giềng tâm giao

Phật tâm, Phật tánh truyền trao

Tổ tổ phú pháp, nhịp cầu thiền gia

Tự ngàn xưa, hạnh Tăng-già

Mỗi thời ứng dụng… một tòa kim cương

Giáo hội nền tảng chơn thường

Tứ chúng hòa hợp cát tường nhân gian

Việt Nam sử ngọc huy hoàng

Bốn ngàn năm - họ Hồng Bàng uy danh.

4.

Hai ngàn năm - Phật hóa hành

Hai ngàn năm, ánh đạo lành nở hoa

Sen vàng bát ngát hằng sa

Hồng, xanh, vàng, trắng… kết tòa lung linh

Hai ngàn năm, tụng tâm kinh

Giang sơn đất Mẹ hữu tình Bắc Nam

Một chín tám mươi (1980) Ưu-đàm

Ba miền cửu phẩm linh nham sắc màu

Nam truyền Nguyên thủy dạt dào

Bắc truyền Phát triển tương giao tâm đồng.

5.

Thiền - Tịnh - Mật suối thanh trong

Linh Sơn pháp lữ Phật tông cội nguồn

Một chín tám mốt (1981) từ trường

Tòng lâm tụ hội dâng hương phụng thời

Bắc - Trung - Nam nở nụ cười

Tăng Ni, Phật tử xinh tươi tâm hồn

Ngày xưa, Hy-mã-lạp-sơn

Phật mầu lan tỏa bốn phương hồng trần

Ngày nay, đất Việt ứng thân

Tăng-già đoàn tụ, hiển thần độ sanh.

6.

Từ bốn đến bảy (4-7) định danh

Mười một, tám mốt (11/1981) phúc dành thiền cơ

Bao năm như đợi như chờ

Thanh bình - thống nhất giấc mơ Bồ-đề

Bây giờ nguồn cội quay về

Một gốc chín nhánh xum xuê lá cành

Thời gian thấm thoát qua nhanh

Không gian trầm lắng, trăng thanh êm đềm

Ngày qua ngày, đêm qua đêm

Ba lăm năm, giấc mộng hiền khương an.

7.

Bảy nhiệm kỳ, pháp âm vang

Trăng sao, lóng lánh như ngàn sương mai

Đêm qua đêm, ngày qua ngày

Lời kinh, tiếng kệ Như Lai trầm hùng

Bao nhịp mõ, bao hồi chuông…

Ngân nga vang vọng, tựa nương lòng người

Đệ nhất Pháp chủ duyên thời

Ma-ha Bát-nhã ấn lời hưng long

Đệ nhị Pháp chủ tịnh hồng

Án tỳ-lô giá… diệu tông tảng nền

Đệ tam Pháp chủ đại hiền

Bách niên trường thọ thường nhiên xứ hành

Nhớ hoài phẩm hạnh cao thanh

Đệ nhất Chủ tịch thiền hành vô ưu

Bốn tám đại nguyện trượng phu

Lãnh đạo Giáo hội điều nhu thuyền từ

Đệ nhị Chủ tịch như như

“Nhất hạnh tam muội” thiền sư yên bình

Ba mươi năm, một niềm tin

Vạn Đức thạch trụ lặng thinh hoằng truyền.

8.

Cùng chư Trưởng lão hiện tiền

Tôn đức giáo phẩm ba miền dày công

Ba lăm năm đạo trổ bông

Ba lăm năm đức Tiên Rồng tỏa hương

Ba lăm năm lắng vô thường

Ba lăm năm nhập thiền phương ẩn tàng

Ba lăm năm hiển đạo tràng

Ba lăm năm hóa vô vàn tường vân

Ba lăm năm thị phong trần

Ba lăm năm giác nghĩa nhân phụng thời

Ba lăm năm ngộ biển đời

Ba lăm năm chứng đất trời huyền linh.

9.

Chí thành tụng đọc trang kinh

“Khai - thị - ngộ - nhập” hiền minh nhiệm mầu

Chí thành chí thiết nguyện cầu

Phật ân vô lượng, thanh cao đỉnh vàng

Thời gian nối tiếp thời gian

Tăng-già phẩm hạnh nghiêm trang tuệ hành

Đạo pháp - Dân tộc thiên sanh

Việt Nam quê Mẹ hóa thành bảo châu.

TP.HCM - Hà Nội, tháng 11 năm 2016
Trần Quê Hương

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Bia tháp Hòa thượng Ẩn Sơn Long Thiền

Bia tháp Hòa thượng Ẩn Sơn Long Thiền

NSGN - Hòa thượng Ẩn Sơn có pháp húy là Thành Nhạc, thuộc đời 34 Thiền phái Lâm Tế, theo kệ phái Đạo Mân Mộc Trần. Hòa thượng là vị Tổ khai sơn chùa Long Thiền, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Học giới cho ngài là đệ tử của Hòa thượng Nguyên Thiều Thọ Tông (1648-1728).
Ví dụ mặt trăng

Ví dụ mặt trăng

NSGN - Tỳ-kheo các thầy phải tu tập giống như mặt trăng, như người mới học, khi đi vào nhà người thì phải nhiếp tâm, kiểm thúc thân, biết hổ biết thẹn, luôn khiêm hạ.
Ảnh: Phùng Anh Quốc

Đức Phật dạy lìa xan tham

NSGN - Chữ “xan tham” là cách dịch của Thầy Minh Châu, với chữ xan là keo kiệt, và tham là tham muốn. Cả hai chữ xan và tham đều có nghĩa gần nhau, đều là chấp có cái gì là “ta” và “của ta” và “muốn gì cho ta”.

Thông tin hàng ngày