Bốn pháp chúc mừng

Bốn pháp chúc mừng
0:00 / 0:00
0:00
GNO - Theo truyền thống Phật giáo, sau khi các Phật tử cúng dường vật thực hay các món vật dụng đến chư Tăng, một vị sẽ đại diện chư Tăng nói lời tùy hỷ với phước thiện mà chư thí chủ đã làm và sau đó chư Tăng sẽ tụng kinh chúc phúc đến các Phật tử.

Một trong những bài kệ do chính kim khẩu Đức Thế Tôn thuyết giảng còn được chúc tụng thường ngày chính là bài kệ nói về bốn pháp chúc mừng.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

Thường tôn trọng, kính lễ,
Bậc kỳ lão trưởng thượng;
Bốn pháp được tăng trưởng:

Thọ, sắc, lạc, sức mạnh (1).

Từ thuở xưa, theo kinh điển ghi lại, sau khi thọ trai xong, Đức Phật sẽ tùy thời mà “nói lời tùy hỷ (công đức). Ngài nói lời tùy hỷ (công đức), không chỉ trích bữa ăn ấy, không mong bữa ăn khác; trái lại, Ngài với pháp thoại khai thị hội chúng ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Ngài sau khi với pháp thoại khai thị hội chúng ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi”(2). Và trong nội dung bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau khảo sát về bốn pháp chúc tụng mà chư Tăng thường hay chúc tụng đến các Phật tử. Bốn pháp chúc mừng gồm: tuổi thọ (āyu), dung sắc (vaṇṇa), an lạc (sukha), và sức mạnh (bala).

shutterstock_707784604.jpg

Bốn pháp chúc mừng gồm: tuổi thọ (āyu), dung sắc (vaṇṇa), an lạc (sukha), và sức mạnh (bala)

1. Tuổi thọ (āyu)

Sự trường thọ thì không phải ai muốn cũng được. Từ xưa, biết bao vị vua chúa đã bỏ công bỏ của để tầm cầu phương thuốc trường sinh bất tử, nhưng rồi vẫn chưa có ai thành công và bất tử cả. Con người trên thế gian này, không phải ai cũng đủ phước báu để sống lâu trăm tuổi hay răng long đầu bạc. Dĩ nhiên rằng, việc sống lâu còn đồng nghĩa là sống khỏe, không bệnh tật thì việc sống lâu mới có giá trị. Còn như sống trăm tuổi già mà bệnh tật liên miên, đau nhức vật vờ thì còn gì ý nghĩa nữa. Có rất nhiều nguyên nhân, điều kiện để có thể đạt được sự sống lâu trong cuộc đời:

Thứ nhất, phải nói đến là nhân quả nghiệp báo. Trường thọ hay yểu mệnh một phần là do nhân quả quyết định. Nếu một người cứ sát sanh, giết hại chúng sanh không biết sợ tội lỗi thì người ấy sau khi chết bị sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục. Nếu như được sanh làm người thì chắc chắn do nghiệp ác dư sót, kẻ ấy không thể nào được trường thọ, sẽ phải bị đoản thọ, yểu mệnh(3). Vì vậy, mong muốn được sống lâu thì phải biết giữ giới, nhất là không sát sanh, không bảo sát hại, không đánh đập, hành hạ chúng sanh khác.

Thứ hai, nhân tố quyết định tuổi thọ là vật thực. “Tất cả chúng sanh duy tồn nhờ vật thực”(4). Chính vật thực là nguồn sống cần thiết cho mỗi chúng sanh. Tuy nhiên, không phải chỉ có vật thực là được, mà phải biết lựa chọn hợp lý. Người ta thường bảo: “Họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập” nghĩa là tai họa từ miệng mà ra, bệnh tật từ miệng mà vào. Vì vậy, ăn uống là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với sức khỏe con người. Khi một người đã mang căn bệnh hiểm nghèo, thì mới thấy sức khỏe là quý. “Không bệnh lợi tối thượng”(5). Cho dù một người đang ở trong nhà cao cửa rộng, xe hơi lộng lẫy đắt tiền, có nhiều tiền lắm của, sự nghiệp cao sang nhưng đang mang một căn bệnh giày vò, uể oải thì con người đó vẫn luôn bất an, buồn lo và chán nản. Vì vậy, “Hãy ăn uống cho thích nghi”(6). Đức Phật dạy trong kinh Tăng chi bộ, có năm pháp làm tăng tuổi thọ như là: làm việc thích hợp; tiết độ trong sự thích hợp; ăn đồ dễ tiêu hóa; sở hành hợp thời; và sống phạm hạnh(7). Hãy học theo gương của Thế Tôn, Ngài thọ dụng vật thực không phải để hưởng thụ món ngon mà Ngài ăn đồ ăn vừa phải với cơm, không có bỏ miếng cơm, chỉ lựa miếng thức ăn, Thế Tôn thưởng thức vị ăn khi ăn đồ ăn, không thưởng thức lòng tham vị, ăn không phải để vui đùa, không phải để đam mê...(8) Và chính Đức Phật khuyên dạy đức vua Pasenadi từ bỏ thói ham ăn và ăn uống hợp lý hơn để có sức khỏe và tuổi thọ:

Con người thường chánh niệm,
Ðược ăn, biết phải chăng,
Chừng mực, cảm thọ mạnh,

Già chậm, tuổi thọ dài (9).

Ngoài ra, việc bố thí cúng dường vật thực và phóng sanh cũng là một cách để giúp gia tăng tuổi thọ. Người thí chủ đã xả tài, bố thí với bàn tay rộng mở thì người ấy đã dẹp bỏ tính ích kỷ, bỏn sẻn, hẳn nhiên tâm trí sẽ được an lạc với sự không dính mắc ấy. Người sống mà không buồn phiền, chấp thủ thì chắc chắn sẽ sống vui vẻ, sống tốt. Nhất là người bố thí mạng sống cho chúng sanh khác thì lại càng có phước báu hơn. “Sau khi cho thọ mạng, người cho được chia phần thọ mạng, thuộc chư Thiên hay loài Người”(10).

Bố thí bậc tối thượng,
Phước tối thượng tăng trưởng,
Tối thượng về thọ mạng,

Dung sắc và danh văn (11).

Như vậy, người nào muốn được sống lâu, sống thọ thì phải biết sống tốt, sống khỏe, không nên tham đắm trong việc ngủ nghỉ, cũng không nên phí công bỏ sức tầm cầu một loại thuốc trường sinh hay nguyện cầu vô ích. “Tất cả hành vô thường”(12) thì không thể nào tránh khỏi sự biến hoại, đổi thay. Tuổi thọ mỗi loài chúng sanh đều có hạn định riêng, sự chết chắc chắn phải xảy ra. Việc quan trọng là sống phải có ích, sống tốt và xứng đáng kiếp sống của mình.

Dẫu một trăm năm sống,
Không thấy pháp vô thường
Chẳng bằng một ngày sống,

Mà thấy pháp vô thường. (13)

2. Dung sắc (vaṇṇa): sắc đẹp, nhan sắc thù thắng

Ông bà ta dạy “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” để dạy con cháu hãy quan trọng vào chất lượng của nội dung bên trong chớ đừng chú ý vào số lượng bên ngoài. Con người dù có đẹp nhưng phẩm chất đồi bại, tính nết xấu xa thì không nên thân cận. Như thế, đạo đức con người mới là thứ quan trọng nhất. Tuy nhiên, trong phép giao tiếp ban đầu, cái nhìn đầu tiên của chúng ta thường để ý xem về hình thức nhiều hơn. “Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân”, vì vậy hình tướng bên ngoài đôi khi cũng là một phần vai trò trong việc đóng góp sự thành công trong giao tiếp. Bởi vì, họ có được sắc đẹp tức là họ có phước, họ đã từng tạo thiện nghiệp nên giờ họ mới có được dung sắc thù thắng hơn người như thế.

Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy đẹp sắc. Con đường ấy đưa đến đẹp sắc, này thanh niên, tức là không phẫn nộ... không bất mãn (14).

Không đâu xa xôi, chính Đức Thế Tôn của chúng ta, từ vô lượng kiếp quá khứ, Ngài đã vun tạo nhiều phước thiện nên kiếp cuối này sanh ra, Ngài đầy đủ 32 đại nhân tướng (mahāpurisalakkhaṇa) và 80 vẻ đẹp (anubyañjana). Để có được tướng hảo thù thắng như vậy, Đức Bồ-tát đã tạo vô số thiện pháp từ vô lượng kiếp, như là sống chừng mực, kiên trì và không dao động đối với các thiện pháp, tam nghiệp thiện hạnh, hiếu kính với mẹ cha, cúng dường Sa-môn, cúng dường Bà-la-môn, từ bỏ nói dối, từ bỏ nói hai lưỡi, tránh nói lời độc ác, từ bỏ sát sanh, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình, không sân hận...(15) Đó là một số ít trong vô số thiện hạnh mà Đức Bồ-tát đã phải thực hành trong quá khứ và cũng là nhân để Ngài nhận được kết quả là những tướng hảo thù diệu không ai có. Có những người đến với Đức Phật vì niềm tin, vì nghe tiếng tốt về Thế Tôn, vì giới hạnh của Ngài, vì Ngài thuộc dòng vua chúa, và cũng có những người đến với Đức Phật vì hảo tướng của Ngài, vì tò mò về dung sắc của Ngài, điển hình là Tôn giả Vakkali(16). Nhờ dung sắc đặc thù như vậy mà Thế Tôn đã thu phục được nhiều hạng ngoại đạo như Bà-la-môn Brahmāyu(17) chẳng hạn. Không những thế, một trong Bốn như ý đức của một vị Chuyển luân vương là đẹp trai, khả ái, cử chỉ thanh lịch, sắc diện tuyệt luân, thấy xa hơn mọi người(18).

Để có được dung sắc thù thắng, khả ái, khả hỷ, chúng ta phải sống với tâm niệm thiện không sân hận, không ác ý, không nên phẫn nộ, bất bình, không nên chấp giữ sân hận trong tâm. Để được như thế, chúng ta hãy tu tập tâm từ, vì sống với tâm từ thì tâm của chúng ta sẽ luôn luôn mát mẻ, an lạc. Hơn thế nữa, việc tu tập tâm từ sẽ đem đến mười một lợi ích như là: ngủ an lạc; thức an lạc; không ác mộng; được loài người ái mộ; được phi nhân ái mộ; chư Thiên bảo hộ; không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm; tâm được định mau chóng; sắc mặt trong sáng; mệnh chung không hôn ám; nếu chưa thể nhập thượng pháp (A-la-hán quả) thì được sanh lên Phạm thiên giới(19).

3. An lạc (sukha): thân tâm an lạc, hạnh phúc

Đi tìm nguồn hạnh phúc, an lạc luôn là một ước vọng chính đáng của nhân loại đã có từ xa xưa. Tại Ấn Độ xưa, người ta đã tự họp nhau lại bàn bạc xem cái gì là hạnh phúc nhất. Những cuộc tranh luận, cãi cọ cuối cùng không xác định được cái gì mới là hạnh phúc nhất. Câu chuyện tranh cãi ấy kéo dài suốt 12 năm trời. Cho đến khi Đức Thế Tôn truyền bá Chánh pháp, có vị trời xuống đảnh lễ Ngài và xin Ngài giảng giải những pháp đem đến hạnh phúc. Và do đó, Đức Thế Tôn giảng giải về 38 pháp hạnh phúc cao thượng(20), là những pháp hạnh phúc từ thấp đến cao.

Sự an lạc, hạnh phúc đối với người tại gia cư sĩ, Đức Phật dạy có bốn điều: lạc sở hữu là sự an lạc vì có được tài sản thu hoạch hợp pháp; lạc hưởng thụ là sự an lạc khi thọ dụng tài sản của chính mình để nuôi mạng; lạc vô trái là sự an lạc do không bị mắc nợ ai; và lạc vô tội là sự an lạc do không làm điều ác(21). Trong bốn điều an lạc này, lạc vô tội là điều an vui có giá trị cao nhất vì nó khiến cho con người được an lạc thật sự, không phải nơm nớp lo sợ vì lỗi lầm, vì việc ác đã làm; hơn nữa, mình không phải lo sợ bị sanh vào cõi khổ sau khi mạng chung.

Một lần nọ, vương tử Hatthaka đi đến yết kiến Thế Tôn khi Ngài đang trú trong rừng Siṃsapā ở Gomagga. Vương tử Hatthaka thấy Thế Tôn trú trong rừng trong đêm đông rét lạnh, đất cứng do trâu bò giẫm đạp, nệm làm bằng lá mỏng manh, những lá cây lưa thưa, mà tấm vải cà-sa thì mỏng, và gió thổi lạnh nên hỏi Ngài có được an lạc chăng? Thế Tôn xác nhận: “Ta sống được an lạc. Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số những người ấy”(22). Qua cuộc đàm luận giữa rừng với Đức Phật, vương tử đã rút ra được bài học: dầu sống trong cung vàng điện ngọc, gác tía lầu son nhưng nội tâm còn nhiệt não do tham ái chi phối thì không thể nào cảm nhận được sự an lạc thật sự.

Đức Phật muốn hướng đến cho chúng đệ tử của Ngài: sự an lạc, hạnh phúc nơi thân tâm không nên lệ thuộc vào vật chất. Để được điều đó, phải biết sống trong hiện tại, đừng nuối tiếc về quá khứ đã xảy ra cũng chớ ngóng trông về tương lai chưa đến. Khi sống với hiện tại, tâm thân ta trở nên an lạc với cái chúng ta đang có.

Không than việc đã qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,

Do vậy, sắc thù diệu (23).

4. Sức mạnh (bala): thể lực, khỏe mạnh

Sức mạnh ở đây chính là cơ thể khỏe mạnh, vô bệnh, thân thể tráng kiện. Để có được những điều này, cần phải có một chế độ ăn uống hợp lý, sinh hoạt phù hợp, làm những việc vừa sức. Ngoài ra, gìn giữ cho tinh thần thoải mái, an lạc cũng là một điều khiến cho cơ thể được khỏe mạnh.

Hơn thế nữa, trong kinh điển, Đức Phật dạy về sức mạnh có rất nhiều loại, điển hình là năm hữu học lực như: tín lực, tàm lực, quý lực, tấn lực, tuệ lực(24). Tín lực là sức mạnh không dao động trước sự vô tín; là đạt niềm tin trọn vẹn vào Tam bảo, nhất là Đức Phật. Tàm lực là sức mạnh khi hổ thẹn tội lỗi, hổ thẹn đối với các ác bất thiện pháp. Quý lực là sức mạnh ghê sợ đối với tội lỗi, đối với các ác bất thiện pháp. Tấn lực là sức mạnh không dao động trước sự lười nhác. Nỗ lực thực hành bốn pháp Chánh cần. Tuệ lực là sức mạnh không dao động trước vô minh.

Một cơ thể khỏe mạnh, có sức đề kháng thì không vi khuẩn nào có thể tấn công, bệnh không thể phá hoại; cũng vậy, người nào có được những sức mạnh đề cập ở trên thì sẽ không bị phiền não hoặc những pháp chướng ngại làm cản trở con đường tu tập.

Tóm lại, lời kinh chúc phúc của chư Tăng như là lời chúc tụng và ước nguyện cho chư thiện tín được thành tựu những điều hạnh phúc, an lạc. Cũng nên biết rằng: chư Tăng tụng chúc phúc như vậy chứ không hẳn mình chắc chắn sẽ được như vậy. Vì nếu có chúc tụng cả ngày, cả tuần mà người ấy vẫn ăn chơi sa đọa, không tri túc trong ăn uống, dính mắc mọi thứ thì làm sao được an lạc, được khỏe mạnh. Cho nên, tụng kinh là một chuyện mà người muốn được thành tựu hay không cũng là do người chứ không phải do chư Tăng. Các vị xuất gia chỉ là ruộng phước để người có tín tâm gieo trồng thiện pháp, còn họ gieo gì thì phải do hành động của họ mà thôi.

Nhân dịp năm mới, kính chúc quý vị một năm mới an khang, tràn đầy hỷ lạc và thành tựu được cả bốn pháp chúc mừng: sống lâu, sắc tốt, an vui và sức mạnh.

Bhik. Samādhipuñño Định Phúc(Báo Giác Ngộ Xuân Canh Tý)

__________

1Kinh Pháp cú, kệ 109 (Dhp.109).

2Kinh Trung bộ, kinh Brāhmāyu (M.ii.139).

3Kinh Trung bộ, kinh Tiểu nghiệp phân biệt (M.iii.203).

4Kinh Trường bộ, kinh Thập thượng (D.iii.273).

5Kinh Pháp cú, kệ 204 (Dhp.204).

6Kinh Trường bộ, kinh Đại Thiện Kiến vương (D.ii.173).

7Kinh Tăng chi bộ, chương Năm pháp, phẩm Bệnh, kinh Tuổi thọ (A.iii.145).

8Kinh Trung bộ, kinh Brāhmāyu (M.ii.138f).

9Kinh Tương ưng bộ, tương ưng Kosala, phẩm thứ hai, phần Ðại thực, kinh Ăn nhiều (S.i.81).

10Kinh Tăng chi bộ, chương Bốn pháp, phẩm Nguồn sanh phước, kinh Sudatta (A.ii.64).

11Kinh Tăng chi bộ, chương Bốn pháp, phẩm Bánh xe, kinh Các lòng tin (A.ii.35).

12Kinh Pháp cú, kệ 277 (Dhp.277).

13Kinh Pháp cú, kệ 113 (Dhp.113).

14Kinh Trung bộ, kinh Tiểu nghiệp phân biệt (M.iii.203).

15Kinh Trường bộ, kinh Tướng (D.iii.143ff).

16Kinh Tương ưng bộ, tương ưng Uẩn, phẩm Trưởng lão, kinh Vakkali (S.iii.119ff).

17Kinh Trung bộ, kinh Brāhmāyu (M.ii.133ff).

18Kinh Trường bộ, kinh Đại Thiện kiến vương (D.ii.177).

19Kinh Tăng chi bộ, chương Mười một pháp, phẩm Tùy niệm, kinh Từ (A.v.342).

20Tiểu tụng, kinh Điềm lành (Kp.2ff).

21Kinh Tăng chi bộ, chương Bốn pháp, phẩm Nghiệp công đức, kinh Không tội (A.ii.69).

22Kinh Tăng chi bộ, chương Ba pháp, phẩm Sứ giả của trời, kinh Hatthaka (A.i.136f).

23Kinh Tương ưng bộ, tương ưng Chư thiên, phẩm Cây lau, kinh Rừng núi (S.i.9).

24Kinh Tăng chi bộ, chương Bốn pháp, phẩm Đạo hành, kinh Bất tịnh (S.ii.151).

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày