Hiện lên trong bức tranh thiên nhiên là một không gian vũ trụ bao la thoáng đãng, mênh mông tươi sáng của trời mây sông nước. Trong bức tranh ấy có dòng sông phẳng lặng nước trong xanh, có bầu trời lồng lộng một màu trong suốt. Tất cả được đo đếm một cách chung chung là muôn dặm (vạn lý), gợi nên chiều sâu và chiều cao của không gian tươi đẹp muôn trùng. Trong thơ Đường, không gian vũ trụ mênh mông thoáng đạt được diễn tả bằng những từ “thiên lý”, “thiên xích”, “vạn trượng” gợi cho người đọc sự liên tưởng về một thế giới mênh mông vô tận. Bài thơ này cũng vậy, “vạn lý” như thước đo cho sự vô hạn của không gian đất trời. Nhưng với điểm nhìn khá đặc biệt của mình, nhà sư từ chiếc thuyền trôi giữa dòng nước mênh mông sóng gợn, ngắm thẳng lên bầu trời trong xanh, cũng có thể bầu trời ấy được phản chiếu từ dòng sông lặng lẽ trôi dưới mạn thuyền. Dường như, chính dòng sông muôn dặm ấy là tấm gương phản chiếu cả bầu trời trong tầm nhìn hun hút của nhà thơ. Đưa ánh mắt trở về những cảnh vật gần gũi hơn, nhà sư- ông chài thấy xóm làng thấp thoáng ẩn hiện trong những bụi dâu gai, những ngọn khói phủ trùm như ôm ấp cuộc sống. Một cái nhìn rất nên thơ và sống động:
Trời xanh nước biếc muôn trùng,
Một thôn sương khói, một vùng dâu đay.
(Kiều Thu Hoạch dịch)
Cảnh vật không tách rời riêng rẽ mà tồn tại trong sự hòa điệu, pha trộn lẫn nhau tạo nên vẻ đẹp hài hòa, thu hút. Bức tranh thiên nhiên cảnh vật rộng lớn, đầy đường nét, màu sắc và cũng hết sức tĩnh lặng. Tất cả tạo nên một không gian giao hòa trong trẻo, không gian ấy trống trải mênh mông mà tưởng chừng ôm đồm, vồ vập. Nó tràn đầy bởi một loạt “vạn lý”, “nhất thôn” như có cảm giác một người nào đó đem đủ thứ màu sắc, sự vật đổ đầy vào từng cái khuôn của không gian rộng lớn. Thế nhưng tất cả đều là sự vật của thiên nhiên, tồn tại trong đất trời trong sự hài hòa với vạn vật. Nhờ đó bên cái không gian trong trẻo mát lành còn có một không gian mây khói mơ màng mờ ảo. Và cái mờ ảo, hồn nhiên của xóm làng lại được gói trọn trong không gian trời nước đẹp tươi và tràn đầy sức sống.
Trong bức tranh thiên nhiên xinh đẹp và gợi tình gợi cảm ấy là hình ảnh một ông chài say sưa với giấc ngủ. Ông bỏ ngoài mắt sự khơi gợi của thiên nhiên, ông bỏ quên tất cả màu sắc của đất trời, thậm chí quên cả sự tồn tại trong cuộc đời của bản thân mình để đắm chìm trong giấc ngủ như nhiên, hồn hậu, tự tại.
Ông chài ngủ tít ai lay
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết bay đầy thuyền.
(Kiều Thu Hoạch dịch)
Một giấc ngủ dài và sâu, vô tư hồn nhiên trước sự đời. Trước sau không một bóng người, không một lời kêu gọi càng tô đậm thêm bầu không gian êm đềm, lặng lẽ. Đó không là một giấc ngủ bất cần đời mà chính là giấc ngủ của sự hòa nhập tuyệt đối với cuộc đời, với không gian trời đất bao la rộng lớn. Chính cái quên đó là bước đệm để ông chài- thiền sư “hốt nhiên” bắt gặp sự đầy đủ tràn trề của cái bản thể diệu dụng
Quá ngọ tinh lai tuyết mãn thuyền
Con thuyền đã đầy tuyết lúc nào không hay, bây giờ tỉnh dậy nhà sư mới bất thần nhận ra, cũng giống như bản thể con người vốn tràn đầy và đủ khắp. Một lúc nào đó, khi lắng đọng tất cả mọi xô bồ, ôm đồm, vồ vập của cuộc đời, con người sẽ nhận ra cái toàn chân toàn giác vốn hiện hữu, đầy khắp không gian và thời gian ở bên trong mỗi con người.
Bài thơ thể hiện một cách kín đáo triết lý Thiền tông mang đậm màu sắc “đốn ngộ”. Tuyết vốn không phải là một hiện tượng phổ biến ở Việt Nam, thế nhưng nhà thơ đã sử dụng hình tượng mang tính quy phạm này một cách tài tình để diễn đạt triết lý thiền của mình. Có thể khẳng định rằng, sau khi tỉnh dậy, bất giác nhận ra “tuyết mãn thuyền”, nhà sư đã bắt gặp “chủ nhân ông” của chính mình.
Cả bài thơ là một bài ca hồn hậu tự nhiên và tươi vui của một con người sống an nhàn lặng lẽ khi đã trở về với bản thể giác ngộ.