NSGN - Trong kho tàng kinh điển Hán tạng, kinh Tứ thập nhị chương là một trường hợp đặc biệt, ẩn chứa nhiều giai thoại liên quan đến lịch sử du nhập cũng như quá trình phát triển của Phật giáo tại Trung Hoa và ngay cả Việt Nam. Với những quốc gia có sử dụng kinh điển Phật giáo chữ Hán, thì kinh Tứ thập nhị chương là một bản kinh được nhiều giới Phật học quan tâm nghiên cứu, tạo nên nhiều dị bản cùng song hành, tồn tại. Đi tìm bối cảnh ra đời, tính chất đặc thù cũng như các truyền bản kinh Tứ thập nhị chương là chủ đích của bài khảo luận này. Một trang Phật tổ Tam kinh Vấn đề niên đại |
Niên đại xuất hiện của kinh Tứ thập nhị chương hiện có nhiều thuyết, được liên tục cập nhật, bổ sung qua các thời kỳ.
* Theo Tổng lý chúng kinh mục lục (綜理眾經目錄)
Tổng lý chúng kinh mục lục hiện không còn nguyên trạng trong Đại tạng kinh Đại chính tân tu. Tuy nhiên, tác phẩm này được Xuất Tam Tạng ký tập, quyển thứ 15, Lịch đại Tam bảo ký, quyển 8 và Đại Đường nội điển lục, quyển 3, Cao tăng truyện, quyển thứ 5 lưu lại một số nội dung căn bản.
Theo đó, Tổng lý chúng kinh mục lục do Thích Đạo An soạn, có 24 thiên, hợp thành 28 quyển. Ngài Đạo An sống ở thời Đông Tấn (317-420), xuất gia năm 12 tuổi, bẩm tính thông minh, kinh điển chỉ cần đọc qua một lần là nhớ. Ngài là người đầu tiên chủ trương soạn Danh mục kinh điển (撰為經錄)(1). Trong Danh mục kinh điển của ngài Đạo An không có kinh Tứ thập nhị chương. Theo ngài Tăng Hựu, tác phẩm kinh lục của Pháp sư Đạo An đã bỏ sót kinh này (安法師所撰錄闕此經)(2).
* Theo Xuất Tam Tạng ký tập (出三藏記集)(3)
Trước hết, theo những tư liệu sớm nhất được ghi lại trong Xuất Tam Tạng ký tập của ngài Tăng Hựu (446 - 511), là bài tựa kinh Tứ thập nhị chương(4). Trong bài tựa này, đã ghi lại câu chuyện giấc mơ của vua Hán Minh Đế mộng thấy người vàng và sau đó, nhà vua đã thành lập một phái đoàn sang Tây Vực cầu pháp. Bài tựa chỉ xác tín vào thời Hán Minh Đế (28-75) mà không đề cập chính xác niên đại Phật pháp được lưu hành cũng như niên đại xuất hiện bản kinh Tứ thập nhị chương. Trong bài tựa này, có một chi tiết quan trọng mà ngài Tăng Hựu lưu ý, đó là không rõ tác giả của bài tựa là ai (未詳作者).
Trong quyển 1 của Hoằng minh tập cũng do ngài Tăng Hựu soạn, cũng đề cập đến câu chuyện Hán Minh Đế mộng người vàng qua câu trả lời của ngài Mâu Tử. Lời trần thuật của ngài Mâu Tử gần như trùng khớp với Bài tựa kinh Tứ thập nhị chương (四十二章經序) không rõ tác giả, cũng do chính ngài Tăng Hựu đã dẫn trong Xuất Tam Tạng ký tập.
Đối chiếu giữa bản Bài tựa kinh Tứ thập nhị chương được lưu trong Xuất Tam Tạng ký tập và lời dẫn lại của Mâu Tử trong tác phẩm Lý hoặc luận, được ghi lại trong Hoằng minh tập, đã cho thấy rằng, Bài tựa kinh Tứ thập nhị chương trong Xuất Tam Tạng ký tập là bản chính.
* Theo Lịch đại Tam bảo ký (歷代三寶紀)(6).
Lịch đại Tam bảo ký do Phí Trường Phòng đời nhà Tùy soạn. Trong quyển 4 của tác phẩm, danh tánh ngài Ca Diếp Ma Đằng (cũng còn gọi là Trúc Nhiếp Ma Đằng 竺攝摩騰) được Phí Trường Phòng khắc họa rõ nét. Điều đặc biệt hơn là câu chuyện Hán Minh Đế mộng thấy người vàng được xác định vào năm Vĩnh Bình thứ bảy. Theo tác phẩm, niên đại dịch kinh Tứ thập nhị chương diễn ra vào năm Vĩnh Bình. Đặc biệt, tác giả Phí Trường Phòng cho rằng kinh Tứ thập nhị chương là bản kinh đầu tiên có mặt trên đất Hán (即是漢地經之祖也)(7).
* Theo Chúng kinh mục lục (眾經目錄)(8)
Chúng kinh mục lục do Pháp Kinh, Tỉnh Thái và nhiều vị học giả có thẩm quyền đời nhà Tùy soạn. Trong tác phẩm này, bản kinh Tứ thập nhị chương được đề cập trong quyển 2 hết sức ngắn gọn về niên đại, khi ghi rằng: Kinh Tứ thập nhị chương, 1 quyển, vào năm Vĩnh Bình đời Hậu Hán (25-220), do ngài Trúc Pháp Lan và các người khác cùng dịch.
* Theo Khai nguyên thích giáo lục (開元釋教錄)(9)
Khai nguyên thích giáo lục do ngài Trí Thăng (658-740) đời nhà Đường soạn. Trong quyển 1, phần dẫn khởi về câu chuyện của Ca Diếp Ma Đằng tương tự như như tác phẩm Lịch đại Tam bảo ký, tức chỉ một người, và gặp tại nước Đại Nguyệt Chi. Đáng chú ý là, Khai nguyên thích giáo lục kế thừa trọn vẹn ý kiến đề xuất của Phí Trường Phòng, khi cho rằng, đây là bộ kinh pháp có mặt đầu tiên trên đất Hán (即是漢地經法之祖也).
* Theo Phật Tổ thống kỷ (佛祖統紀)(10)
Phật Tổ thống kỷ do ngài Chí Bàn soạn vào đời Nam Tống. Tư liệu về kinh Tứ thập nhị chương nằm ở quyển 35, quyển 50, quyển 53. Theo tác phẩm, câu chuyện Hán Minh Đế mộng thấy người vàng xuất hiện vào năm thứ bảy, đời vua Hán Minh Đế. Vào năm thứ 10, phái đoàn thỉnh kinh đã gặp hai ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan ở nước Đại Nguyệt Chi. Năm thứ 11, đời Hán Minh Đế, ngài Ma Đằng dịch Tứ thập nhị chương kinh ở chùa Bạch Mã.
Qua bảy nguồn tư liệu vừa dẫn ở trên đã cho thấy rằng, đã có sự kế thừa lẫn nhau trong việc xác định niên đại kinh Tứ thập nhị chương. Thực chất, những tác phẩm vừa dẫn mặc dù có sự bổ sung, chỉnh sửa có chủ đích, thế nhưng niên đại xuất hiện của kinh Tứ thập nhị chương vẫn chưa được trả lời thỏa đáng.
Vì lẽ, từ luận cứ đầu tiên dùng để xác định niên đại được ghi lại trong Xuất Tam Tạng ký tập, là Bài tựa kinh Tứ thập nhị chương đề cập về câu chuyện Hán Minh Đế mộng người vàng. Về mặt văn bản, theo như lưu ý của ngài Tăng Hựu, thì chưa rõ tác giả của tư liệu này là ai (未詳作者), thế nên mức độ chứng thực của tài liệu không đảm bảo. Không những thế, có một chữ Hán (漢) nhấn mạnh bổ sung và chữ Hiếu Minh hoàng đế (孝明皇帝) vốn là thụy hiệu của Hán Minh Đế. Mặt khác, năm chữ cuối: mãi đến nay không dứt (于今不絕也) cho thấy rằng bài tựa này được hình thành khá muộn, ít nhất sau thời nhà Hán và có khả năng trong thời ngài Tăng Hựu. Các tác phẩm về sau như Lịch đại Tam bảo ký, Khai nguyên thích giáo lục, Phật tổ lịch đại thông tải… do vì kế thừa nguồn tư liệu này, nên không thể bảo chứng về niên đại xuất hiện kinh Tứ thập nhị chương.
Trong bài tựa có đề cập đến một vị Trung lang tướng tên là Trương Khiên (張 騫…中 郎 將). Theo Sử ký Tư Mã Thiên, tập sáu mươi ba, Đại uyển liệt truyện, vị trung lang tướng này là người từng đi Đại Nguyệt Chi, là người có công mở mang con đường thông thương, trao đổi hàng hóa giữa Trung Quốc với các nước trên Con đường tơ lụa. Ngày nay, một bức tượng của ông đã được dựng dưới chân núi Hắc Sơn, thành phố Gia Dụ Quan thuộc, tỉnh Cam Túc. Điều đáng chú ý, Trung lang tướng Trương Khiên sống ở thời Tây Hán, dưới triều vua Hán Vũ Đế, đã từng đi sứ Đại Nguyệt Chi và năm Kiến Nguyên thứ 2 (139 TCN). Ở đây, nếu như Bài tựa kinh tứ thập nhị chương đề cập chính là vị Trung lang tướng Trương Khiên này, thì quả là môt sự thêm thắt không phù hợp với niên đại.
Tính kế thừa và phóng tác các tư liệu liên quan đến kinh Tứ thập nhị chương còn lộ rõ ở những tác phẩm về sau. Chẳng hạn, mặc dù chỉ dựa trên tư liệu của ngài Tăng Hựu qua hai tác phẩm Xuất Tam Tạng ký tập và Hoằng minh tập, nhưng Phí Trường Phòng trong tác phẩm Lịch đại Tam bảo ký vẫn phóng tác cho rằng kinh Tứ thập nhị chương là bản kinh đầu tiên tại đất Hán (即是漢地經之祖也). Quan điểm này được Khai nguyên thích giáo lục kế thừa, và từ đây đã dẫn đến quan niệm của số đông, cho rằng kinh Tứ thập nhị chương là bản kinh Phật giáo đầu tiên tại Trung Hoa.
Không những thế, có một chi tiết đáng ngờ trong bài tựa kinh Tứ thập nhị chương được dẫn xuất trong Xuất Tam Tạng ký tập và cũng có mặt trong Hoằng minh tập. Đó là, sau khi mộng thấy người vàng, vua Hán Minh Đế đã cử một phái đoàn hơn mười người sang nước Đại Nguyệt Chi trích tuyển và sao chép kinh Phật (至大月支國寫取佛經)(11). Như vậy, trong những người đó, phải có người biết rõ ngôn ngữ nước Đại Nguyệt Chi mới có thể trích tuyển kinh Phật. Ở đây, nếu đã có khả năng trích tuyển được kinh Phật bằng ngôn ngữ Đại Nguyệt Chi, thì cũng không quá khó khăn để phiên dịch những bản kinh đó sang bản ngữ. Và như vậy, câu chuyện hai ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan dịch kinh tại chùa Bạch Mã là một sự kiện còn nhiều nghi vấn.
Có lẽ nhận ra điều ấy nên trong những tác phẩm về sau, như Lịch đại Tam bảo ký và Khai nguyên thích giáo lục đã bổ sung chi tiết này khi cho rằng, phái đoàn đã gặp ngài Ca Diếp Ma Đằng tại Đại Nguyệt Chi và sau đó chép kinh đem về Lạc Dương.
Trên một phương diện khác, cũng theo Xuất Tam Tạng ký tập, quyển 2, ngài Tăng Hựu ghi thêm rằng: “Hán Hiếu Minh Đế mộng thấy người vàng, hạ chiếu sai Trương Khiên, Vũ Lâm, Trung lang tướng Tần Cảnh đến Tây Vực. Vừa đến nước Đại Nguyệt Chi, thì gặp Sa-môn Trúc Ma Đằng, dịch rồi sao chép kinh này và trở về Lạc Dương, cất giữ trong gian thạch thất thứ 14 của lầu Ngự Sử. Từ đây, kinh này lưu truyền trong thế gian”(12). Nếu căn cứ vào tư liệu này, thì kinh Tứ thập nhị chương được Trúc Ma Đằng dịch tại Đại Nguyệt Chi. Nếu quả vậy, câu chuyện dịch kinh Tứ thập nhị chương tại chùa Bạch Mã là sự kiện không có thực.
Trở lại với tư liệu kinh lục nổi tiếng đầu tiên là Tổng lý chúng kinh mục lục của ngài Đạo An. Từ những nguồn tài liệu như: Xuất Tam Tạng ký tập, quyển thứ 15, Lịch đại Tam bảo ký, quyển 8 và Đại đường nội điển lục, quyển 3, Cao tăng truyện, quyển 5; đã cho thấy rằng, Đạo An là một vị cao tăng quán thế. Ngài nghiêm túc trong công tác dịch, giải kinh điển. Lộ trình hoằng hóa của ngài trải rộng nhiều nơi, ngài đã từng đến Trường An(13), đã từng biết đến chùa Bạch Mã(14), thì không lý nào câu chuyện Hán Minh Đế mộng người vàng và việc dịch kinh Tứ thập nhị chương tại chùa Bạch Mã mà ngài không biết?
Do vậy, khi ngài Tăng Hựu xác nhận rằng, tác phẩm kinh lục của Pháp sư Đạo An (314 - 385) thiếu bản kinh này. (安法師所撰錄闕此經), thì đồng thời xác tín rằng: trong thời ngài Đạo An, chưa có bản kinh Tứ thập nhị chương.
Đặc biệt, theo khảo sát của chúng tôi, trên tám mươi phần trăm nội dung kinh Tứ thập nhị chương cũng được phát hiện ở các bộ kinh, luật sau: Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng nhất A-hàm, Biệt dịch tạp A-hàm, Phật thuyết A-hàm chánh hạnh kinh, Pháp cú kinh, Pháp cú thí dụ kinh, Xuất diệu kinh, Tạp thí dụ kinh, Phật bát Nê hoàn kinh, Phật khai giải Phạm chí A kinh, Đại bát Niết-bàn kinh, Phật bát Nê hoàn kinh,Tu hành đạo địa kinh, Tu đạt kinh, Bồ-tát Bổn hạnh kinh, Phật thuyết phân biệt bố thí kinh, Hải bát đức kinh, Lục độ tập kinh, Bổn sự kinh, Thiết thành Nê lê kinh, Phạm ma dụ kinh, Ấm trì nhập kinh chú, Sanh kinh, Pháp quán kinh, Chư pháp bổn kinh, Phật thuyết xứ xứ kinh, Phật thuyết vị tằng hữu nhân duyên kinh, Phật thuyết Đại an ban thủ ý kinh, Chánh pháp niệm xứ kinh, Phật thuyết phân vệ Tỳ-kheo kinh, Phật thuyết Đại Tăng đại kinh, Phật thuyết nghĩa túc kinh, Phật thuyết A Nan đồng học kinh, Phật thuyết vô ngôn đồng tử kinh, Diệu pháp thánh niệm xứ kinh, Phật thuyết pháp thọ trần kinh, Tịch chí quả kinh, Phật thuyết Bình Sa vương ngũ nguyện kinh, Phật thuyết nội tàng bách bảo kinh, Thất xứ tam quán kinh, Lại tra hòa la kinh, Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ nại da xuất gia sự, Tứ phần luật, Thập tụng luật, Xuất Tam Tạng ký tập, Chúng kinh mục lục.
Những bản kinh, luật vừa nêu là những cơ sở để bảo chứng rằng, kinh Tứ thập nhị chương có sự liên hệ về nguồn gốc, hoặc có thể được trích xuất và biên tập từ nền tảng đó. Và, hầu hết những bản kinh, luật này, đặc biệt là các bản biệt hành, được Hán dịch khá sớm tại Trung Quốc. Do vậy, theo chúng tôi thì kinh Tứ thập nhị chương có khả năng được trích xuất và định hình từ những công trình kinh, luật đã được Hán dịch nêu trên.
Như vậy, kinh Tứ thập nhị chương là một tuyển tập kinh điển có niên đại xuất hiện khá muộn. Quan điểm này được y cứ từ ba cơ sở. Thứ nhất, cứ liệu từ Xuất Tam Tạng ký tập cho thấy bản kinh có mặt vào thời Hậu Hán không vững, thứ hai, bản kinh không có mặt trong công trình danh mục kinh điển của ngài Đạo An, thứ ba, toàn văn nội dung của kinh được phát hiện trong nhiều dịch phẩm kinh, luật chữ Hán có niên đại xuất hiện khá sớm.
Ba cơ sở quan trọng đó, đã đồng thời cho thấy rằng kinh Tứ thập nhị chương ra đời khá muộn màng so với những truyền tụng xưa nay, ít nhất là sau thời ngài Đạo An, tức vào cuối thế kỷ thứ IV, đầu thế kỷ thứ V Tây lịch.
Các truyền bản kinh Tứ thập nhị chương
Kinh Tứ thập nhị chương được nhiều nhà nghiên cứu Phật học quan tâm, chú giải. Trong thư khố Hán tạng, kinh Tứ thập nhị chương hiện có các bản kinh, chú, sớ như sau:
1- Tứ thập nhị chương kinh, số 784, tập 17/Đại tạng kinh Đại chính tân tu (ĐTK ĐCTT).
2- Chú Tứ thập nhị chương kinh, số 1.794, tập 39/ĐTK ĐCTT. Tống Chân Tông chú. Bản này cũng có mặt trong tập 59/Vạn tục tạng.
3- Tứ thập nhị chương kinh chú, tập 59/Vạn tục tạng. Tống, Sa-môn Cổ Linh Liễu Đổng bổ chú.
4- Tứ thập nhị chương kinh giải, tập 59/Vạn tục tạng. Minh, Ngẫu Ích đại sư viết.
5- Tứ thập nhị chương kinh chỉ nam, tập 59/Vạn tục tạng. Thanh, Sa-môn Phú Sa Thích Đạo Bái thuật.
6- Tứ thập nhị chương kinh sớ sao, tập 59/Vạn tục tạng. Thanh, Từ vân Sa-môn Tục Pháp, thuật.
7- Tứ thập nhị chương kinh giảng lục, Dân Quốc, Thái Hư toàn thư.
8- Phật Tổ tam kinh, Bản biệt hành. Tống, Đại Hồng Từ Tổ, Sa-môn Thủ Toại chú.
Theo kết quả khảo sát và phân loại của chúng tôi thì trong tám tác phẩm vừa nêu, thực tế phát xuất từ hai nguồn tư liệu chính. Thứ nhất, đó là bản kinh Tứ thập nhị chương mang số 784, tập 17/ ĐTKĐ CTK. Thứ hai, là bản của Sa-môn Thủ Toại, trong tác phẩm Phật thuyết Tứ thập nhị chương kinh, nằm trong bản biệt hành Phật Tổ tam kinh.
Ở đây, với nguồn tư liệu thứ nhất, tức bản kinh Tứ thập nhị chương mang số hiệu 784 cho thấy, những lời dạy của Đức Phật được thể hiện trong 42 chương rất gần với nội dung của các bộ kinh A-hàm và các kinh Nikaya tương ứng. Bản chú Tứ thập nhị chương của Tống Chân Tông thời Bắc Tống, đã chú giải dựa trên bản kinh 784. Theo đối chiếu, bản chú giải của Tống Chân Tông giống đến chín mươi phần trăm so với bản kinh 784. Cụ thể, trong bản của Tống Chân Tông có thêm lời dẫn trước nội dung kinh, bổ sung chương 2, bổ sung 20 điều khó ở chương 10, và mở rộng một phần ở chương 42.
Nguồn tư liệu kế tiếp là bản của Sa-môn Thủ Toại. Bản này định hình vào đời vua Tống Cao Tông, năm Kiến Viêm thứ ba (1129), được chính Sa-môn Thủ Toại ghi lại trong phần cuối bản chú giải Phật thuyết Tứ thập nhị chương kinh. Căn cứ vào bài tựa Quy sơn cảnh sách chú của Đức Dị cho thấy, bản chú giải kinh Tứ thập nhị chương của Sa-môn Thủ Toại được tập thành vào tác phẩm Phật tổ tam kinh vào năm Chí Nguyên thứ ba (1266)(15). Phật tổ tam kinh là một tác phẩm phổ dụng của Thiền gia, chưa được đưa vào ĐTK ĐCTT và thu lục không đầy đủ trong danh mục Tục Tạng. Bản chúng tôi hiện sử dụng là một bản biệt hành, in lại vào năm Minh Mạng thứ mười một(16).
Bản của Thủ Toại làm nền tảng của hầu hết các bản chú, sớ liên quan đến kinh Tứ thập nhị chương của các tác giả như Cổ Linh Liễu Đồng, Ngẫu Ích, Đạo Bái, Tục Pháp... Ngay cả bản Tứ thập nhị chương kinh giảng lục của Thái Hư đại sư, cũng được triển khai từ nền tảng bản chú giải của Sa-môn Thủ Toại.
Từ những đối chiếu đó đã cho thấy rằng, kinh Tứ thập nhị chương hiện có hai bản trong Hán tạng. Một bản mang số hiệu 784, thuộc tập 17/ ĐTK ĐCTT và một bản xuất hiện ở thời Nam Tống của Sa-môn Thủ Toại.
Yếu tố Thiền tông trong kinh Tứ thập nhị chương
Trong hai truyền bản kinh Tứ thập nhị chương, thì bản của Sa-môn Thủ Toại ảnh hưởng đậm nét tư tưởng Thiền tông và Lý học đời Tống. Đó là các chương 1, 2, 11, 12, 15, 18, 19, 27, 36, 40, 42.
Căn cứ từ tư liệu lịch sử cho thấy, kinh Tứ thập nhị chương được hình thành trước khi Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Hoa khai phái lập tông vào thế kỷ thứ VI. Nếu vậy, thì sự có mặt tư tưởng Thiền tông trong kinh Tứ thập nhị chương rõ ràng là do người sau thêm vào. Theo đó, khởi nguyên của mọi sự thêm thắt, bổ sung tư tưởng Thiền tông bắt đầu từ bản chú giải của Sa-môn Thủ Toại. Vậy, vị sa môn ấy là ai?
Theo Bổ tục Cao tăng truyện(17), quyển 9, Thủ Toại họ Chương, người huyện Bồng Khê, Tùy Châu, từ nhỏ đã thích chay tịnh, không thích đùa giỡn, rong chơi. Ngài thờ Nam Lộc Viện thượng nhân làm thầy, xuất gia vào năm 27 tuổi, sau đó du hành phương Nam, đến núi Ngọc Tuyền thuộc Hồ Bắc. Tại đây, Thủ Toại gặp vị thiền sư tên là Cần, được coi trọng và chọn làm trợ tá trong viện. Vài năm sau, ngài đến chùa Đại Hồng, ra mắt thiền sư tên Ân. Một lần vào phương trượng trải tọa cụ, thấy một con côn trùng nhỏ rơi xuống đất, ngài vội vàng dùng tay phủi đi, nhân đó đại ngộ, được Thiền sư Ân ấn chứng và giao phó làm Tổng viện.
Thủ Toại là một thiền sư có khả năng văn chương, thi phú. Một lần, ngài triệu đại chúng vân tập thiền đường và đưa ra một công án thấm đẫm chất thơ ca, được nhiều tác phẩm của thiền gia lưu lại:
一 拳 拳 倒 黃 鶴 樓.
一 踏 踏 翻 鸚 鵡 洲.
慣 向 高 樓 玉 驟 馬.
曾 於 急 水 打 金 毬
然雖恁麼 18.
Nhất quyền quyền đảo
Hoàng Hạc Lâu
Nhất đạp đạp phiên
Anh Vũ Châu
Quán hướng cao lâu ngọc sậu mã
Tằng ư cấp thủy đả kim cầu
Nhiên tuy nhẫm ma?
Tạm dịch:
Một tay xoay đảo Hoàng Hạc Lâu(19)
Một bước trở mình Anh Vũ Châu(20)
Quen hướng lầu cao phi ngựa báu
Nhiều phen nước xiết đá kim cầu.
Điều đó có ý gì?
Với khả năng văn chương, thi phú, cộng với ảnh hưởng của một vị thiền sư ngộ đạo, cho nên bản chú giải kinh Tứ thập nhị chương của Sa-môn Thủ Toại được đánh giá cao và được sử dụng rộng rãi vào thời nhà Tống. Đặc biệt, vào thời nhà Tống, kỹ thuật in khắc gỗ đạt đến đỉnh cao, việc in ấn kinh điển được nhiều giới quan tâm bổ trợ. Đó là điều có thể thấy rõ qua tám lần tổ chức khắc in Đại tạng kinh và nhiều ấn bản kinh điển quan trọng trong thư tịch của Phật giáo vào thời nhà Tống.
Không những thế, kể từ cuối nhà Đường và đầu nhà Tống, trong những tông phái Phật giáo tại Trung quốc thì Thiền tông phát triển mạnh mẽ và từng bước phát triển sang các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam. Ở đây, sự phát triển của Thiền tông đã đồng thời tạo tiền đề để cho những tác phẩm của thiền gia nhân đó được quảng bố và ảnh hưởng mạnh mẽ. Đó cũng là một trong những điều kiện thuận lợi để truyền bản kinh Tứ thập nhị chương nằm trong bộ Phật Tổ tam kinh, do Sa-môn Thủ Toại chú giải, được phổ biến và lưu hành rộng rãi ở nhiều nước, trong đó có cả Việt Nam.
Đã từng có luận điểm cho rằng, kinh Tứ thập nhị chương được lưu hành khá sớm ở Việt Nam (Giao Châu) trong những thập kỷ đầu kỷ nguyên Tây lịch, tuy nhiên những luận cứ đưa ra chỉ dừng lại trên phương diện gợi mở và vẫn chưa đảm bảo tính thuyết phục khoa học.
Chúng tôi hiện chưa đủ cứ liệu để xác định chính xác niên đại bản kinh Tứ thập nhị chương đầu tiên có mặt tại Việt
Đặc biệt, căn cứ bài Tứ thập nhị chương kinh tụng do Tăng Viên diễn thơ, vào năm thứ tư niên hiệu Khánh Đức (1652) đời vua Lê Thần Tông, cũng được in chung trong bộ Phật Tổ tam kinh; thông tin đó đã đồng thời cho thấy, kinh Tứ thập nhị chương đã phổ biến ở Việt Nam trước thế kỷ thứ XVII.
Trong những năm đầu và giữa thế kỷ XX, sau những nỗ lực vận động chấn hưng Phật giáo tại Việt nam, những bản kinh cơ bản của Phật giáo được in ấn và lưu hành. Kinh Tứ thập nhị chương cũng là một trong số những bản kinh được quan tâm và phổ biến. Mặc dù vậy, do bị chi phối bởi nguồn tư liệu (nguồn từ Phật Tổ tam kinh và nguồn từ Thái Hư đại sư toàn tập), nên bản kinh Tứ thập nhị chương được phổ biến ở Việt Nam vẫn là bản của Sa-môn Thủ Toại. Bản kinh Tứ thập nhị chương do Hòa thượng Thích Hoàn Quan dịch ra tiếng Việt, là minh chứng tiêu biểu cho trường hợp này.
Đành rằng, bản kinh Tứ thập nhị chương của Sa-môn Thủ Toại sáng tỏ về văn chương, cô động về văn cú, thế nhưng do vì một phần tư nội dung bản kinh bị chi phối và ảnh hưởng bởi quan điểm tông phái và Lý học thời Tống; vì vậy chỉ nên sử dụng bản này cho mục đích đối chiếu, tham khảo.
Từ những gợi ý của Hòa thượng Trí Quang qua Kinh 42 bài(22), từ những đối chiếu, so sánh, khảo sát của chúng tôi giữa bản kinh Tứ thập nhị chương mang số hiệu 784 trong tập 17 và bản Chú tứ thập nhị chương kinh của Tống Chân Tông nằm trong tập 39 của ĐTK ĐCTT, đã dẫn đến một đề xuất mang tính khẳng định: bản kinh mang số hiệu 784, nằm trong tập 17 của ĐTK ĐCTT, là bản kinh Tứ thập nhị chương có giá trị tư liệu mang tính nguyên bản, cần được chính thức nghiên cứu và phổ biến.
Chú thích
(1)大正新脩大藏經第 50 冊 No 2059 高僧傳卷第五.
(2)大正新脩大藏經第 55 冊 No 2145 出三藏記集錄上卷第二, 新集經論錄第一.
(3) 大正新脩大藏經第 55 冊 No 2145 出三藏記集.
(4)大正新脩大藏經第 55 冊 No 2145出三藏記集序卷第六 . Nguyên văn: 四十二章經序第一. (未詳作者). 昔漢孝明皇帝. 夜夢見神人. 身體有金色. 項有日光. 飛在殿前. 意中欣然甚悅之. 明日問群臣. 此為何神也. 有通人傳毅曰. 臣聞天竺有得道者. 號曰佛. 輕舉能飛. 殆將其神也. 於是上悟. 即遣使者張騫羽林中郎將秦景博士弟子王遵等十二人. 至大月支國寫取佛經. 四十二章在十四石函中. 登起立塔寺. 於是道法流布. 處處修立佛寺. 遠人伏化願為臣妾者不可稱數國內清寧. 含識之類蒙恩受賴. 于今不絕也.
(5)大正新脩大藏經第 52 冊 No 2102 弘明集.
(6) 大正新脩大藏經第 49 冊 No 2034歷代三寶紀.
(7)大正新脩大藏經第 49 冊 No 2034歷代三寶紀卷第四.
(8)大正新脩大藏經第 55 冊 No 2147 眾經目錄卷第二.
(9)大正新脩大藏經第 55 冊 No 2154 開元釋教錄, 卷第一.
(10)大正新脩大藏經第 49 冊 No 2035 佛祖統紀.
(11) 大正新脩大藏經第 55 冊 No 2145出三藏記集序卷第六, 四十二章經序第一.
(12)大正新脩大藏經第 55 冊 No 2145 出三藏記集錄上卷第二, 新集經論錄第一. Nguyên văn: 漢 孝 明 帝 夢 見 金 人. 詔 遣 使 者 張 騫 羽 林 中 郎 將 秦 景 到 西 域. 始 於 月 支 國 遇 沙 門 竺 摩 騰. 譯 寫 此 經 還 洛 陽. 藏 在 蘭 臺 石 室 第 十 四 間 中. 其 經 今 傳 於 世.
(13)大正新脩大藏經第 49 冊 No 2034歷代三寶紀卷第八. Nguyên văn: 安既還長安住五重寺.
(14)大正新脩大藏經第 50 冊 No 2059高僧傳卷第五. Nguyên văn: 安以白馬寺狹.乃更立寺名曰檀溪.
(15) 卍新纂續藏經第 63 冊 No 1239 溈山警策註.
(16) Phật Tổ tam kinh, Báo Quốc tự tàng bản, Minh Mạng thập nhất niên, Bình Vọng xã, Thượng Phúc huyện, Hà Đông tỉnh.
(17) 卍新纂續藏經 第七十七冊 No 1524, 補續高僧傳卷第九.
(18)大正新脩大藏經第 51 冊 No 2077 續傳燈錄續傳燈錄卷第十三目錄(終); 卍新纂續藏經第 80 冊 No 1565 五燈會元; 卍新纂續藏經第 79 冊 No 1559 嘉泰普燈錄卷第五.
(19) 黃 鶴 樓. Lầu Hoàng Hạc, cũng là tựa đề một bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu.
(20) 鸚 鵡 洲. Bãi Anh Vũ, một địa danh, cũng là tên một bài thơ nổi tiếng của Lý Bạch.
(21) Triều Lý đã từng cử phái đoàn sứ bộ sang Tống thỉnh kinh Phật. Xem, Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, lịch sử ngoại giào và tôn giáo triều Lý, NXB. Hà nội, 1996, tr.116-117.
(22) Kinh 42 bài, HT.Trí Quang dịch, NXB. TP.HCM, 1994.