Sứ mạng thiêng liêng của vị trụ trì trước thời duyên

GN - 1. Mỗi vị trụ trì phải là một vị đạo sư

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia 1 thì Đạo sư (導師, sa. guru), cũng có khi được dịch theo âm Hán Việt là Cổ Lỗ (古魯), nghĩa là Sư phụ, vị thầy dạy đạo. Theo một ý nghĩa riêng biệt, như trong trường hợp của các vị Đại thành tựu - thì người ta nên dịch chữ “guru” là Chân sư (真師). Cần phân biệt rõ giữa “Đạo sư” và “Chân sư”. “Đạo sư” là người dạy đạo, truyền đạo. “Chân sư” là bậc đạo sư chân chánh, dạy đạo và đời, truyền đạo với những kiến giải mới có lợi ích cho cuộc sống nhân sinh.

Kinh Hoa thủ thì nói: “Người có thể giảng thuyết đạo giải thoát sinh tử cho chúng sanh thì gọi là đạo sư”.

ANH BToan (30).JPG

Hơn 1.200 Tăng Ni tham gia khóa bồi dưỡng trụ trì 2015 do PG TP.HCM tổ chức - Ảnh: Bảo Toàn

Như vậy, mỗi vị trụ trì trước hết phải là một vị đạo sư, tức là vị thầy tâm linh để hướng dẫn cư gia bá tánh quy hướng Tam bảo, thọ trì ngũ giới, tu học theo đúng giáo pháp của Đức Phật để tự chuyển hóa khổ đau, tìm được nguồn an vui hạnh phúc ngay giữa cuộc sống vốn nhiều hệ lụy này. Đây là nhiệm vụ, sứ mạng hết sức quan trọng cần phải có trước tiên của một vị trụ trì. Bên cạnh đó, một vị trụ trì tu học lâu năm với thân tướng, phẩm hạnh trang nghiêm, với thân khẩu ý thanh tịnh, luôn trau dồi giới định tuệ sẽ là bóng mát, là bậc mô phạm - một vị “đạo sư chứng minh” đáng để cho các vị Tỳ-kheo tân học và Phật tử tại gia nương tựa tu học.

Truyền thống của Ấn Độ giáo phân biệt ba vị “Đạo sư”:

- Cha mẹ là người sinh thành thân thể, hiến tặng đời sống và giúp làm quen với các vấn đề trong cuộc đời; thầy giáo dạy các môn học của thế gian, hướng dẫn nghề nghiệp;

- Đạo sư giúp tìm ra con đường đạo, tiến đến giải thoát;

- “Đạo sư vũ trụ” (sa. avatāra, dịch sát nghĩa là “Đấng Giáng thế”) là Bậc Giác ngộ, là hiện thân của sự Giác ngộ, của Chân như.

Về “Đạo sư”, người ta thường đặt hai câu hỏi là:

- Trên con đường tu học giác ngộ, liệu có thật cần một đạo sư hay không;

- Đối với một đạo sư, hành giả phải tuân lời đến mức nào.

Về câu hỏi thứ nhất, các đạo sư Ấn Độ giáo hay dùng một thí dụ giản đơn: Một người khách lạ tìm đường trong một thành phố. Người đó có hai cách, một là cứ lần lượt xem từng con đường, thế nào rồi cũng tìm ra, nhưng mất thời gian và nếu không may, có thể con đường cuối cùng mới đúng là con đường mình kiếm. Cách thứ hai là hỏi một người sống trong thành phố đó, người đó sẽ chỉ cách đi ngắn nhất đến đó. Đạo sư được xem là người sống tại “địa phương” của các phương pháp tu học. Mặt khác, trong kinh sách thường nói, một khi hành giả tiến tới một mức nhất định thì nội tâm sẽ biến thành đạo sư, dẫn đường cho mình. Vì vậy trong kinh có dùng chữ Phạn antaryāmin, nghĩa là “người hướng đạo nội tại”.

Câu hỏi thứ hai nói về sự nghe lời đạo sư, thì quan niệm chung cho thấy rằng không bao giờ một đạo sư chân thật lại ức chế học trò. Ngược lại, học trò phải có một mối liên hệ thân thiết và tin tưởng nơi đạo sư thì các vị đó mới có thể giúp đỡ được. Vị đạo sư được xem là vĩ đại chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì lại khuyên mọi đệ tử nên nghe rồi tự mình trắc nghiệm các chân lý, không nên nhắm mắt tin vào ai, kể cả vào lời nói của một vị Phật.

2. Trụ Pháp Vương gia

Trụ Pháp Vương gia nghĩa là ở trong ngôi nhà của vị vua Pháp, tức Đức Phật. Ngôi nhà của Phật trước hết phải kể sự hiện diện của Đức Phật, Giáo pháp của Ngài và Tăng-già là những đệ tử của Ngài. Một ngôi chùa phải mang ý nghĩa đó và vị trụ trì phải có đầy đủ phẩm chất tốt đẹp để xứng đáng là người coi sóc ngôi chùa, ngôi nhà của Phật.

Vị trụ trì ở trong ngôi chùa, được xem là ngôi nhà của Đức Phật, như kinh Pháp hoa nói: “Nhập Như Lai thất, trước Như Lai y, tọa Như Lai tòa”. Trong nghĩa hẹp, vị trụ trì làm Phật sự khi ở trong chùa: tu hành, giảng pháp cho chư Tăng Ni trẻ mới nhập tự và cho các Phật tử đến chùa, hướng dẫn cho họ tu tập, giữ gìn mạng mạch của chư thầy tổ, của tông môn. Trong ý nghĩa rộng hơn, vị trụ trì “ngồi tòa Phật, tác Phật sự” Có nghĩa vị trụ trì là một đạo sư của mọi người bất kể gần hay xa (ý nghĩa của Tứ vô lượng tâm). Trong ý nghĩa rộng và sâu hơn nữa thì Trụ Pháp Vương gia nghĩa là an trú trong cảnh giới nhất như, chân như của Thường Lạc Ngã Tịnh.

Phật Quang đại từ điển 2 giải thích rằng: Thường Lạc Ngã Tịnh (常樂我淨), cũng gọi tứ đức Niết-bàn. Chỉ cho 4 đức của Niết-bàn Đại thừa và Pháp thân Như Lai. Sự giác ngộ đạt đến cảnh giới Niết-bàn là sự giác ngộ vĩnh viễn không biến đổi, được gọi là Thường; cảnh giới ấy không có các khổ não, chỉ có an vui, gọi là Lạc; được tự do tự tại, không một mảy may bó buộc, gọi là Ngã; không có phiền não nhiễm ô, gọi là Tịnh. [X. Kinh Niết-bàn Q.23 (bản Bắc); Luận Phật tính Q.2], (xt.Tứ đức).

Cho nên, muốn được an trú trong thế giới chân như Thường Lạc Ngã Tịnh, vị trụ trì phải trưởng dưỡng Phật tâm, tu tập tối đa trong ý nghĩa Trì Như Lai tạng.

Ba căn bản tu học của những ai muốn tìm về giải thoát là Giới Định Tuệ.

Giới - Đạo đức trong sạch nhờ chánh hạnh; Định - Tâm thanh lọc nhờ định; Tuệ - Tâm trong sáng nhờ thiền tuệ. Trong kinh Tăng chi 3, Đức Phật đã khẳng định rằng để trở thành một vị Sa-môn phạm hạnh giải thoát thì vị ấy cần phải nỗ lực tinh tấn thực hành trọn vẹn ba hạnh của vị Sa-môn, đó là: “Thọ trì tăng thượng giới học, thọ trì tăng thượng định học, thọ trì tăng thượng tuệ học. Ðây là ba hạnh Sa-môn cần phải làm của Sa-môn”…

Ví như, này các Tỳ-kheo, một con lừa đi theo sau lưng một đàn bò nghĩ rằng: “Ta cũng là con bò, ta cũng là con bò”, nhưng nó không có màu sắc giống như con bò. Nó không có tiếng giống như con bò. Nó không có chân giống như con bò. Tuy vậy, nó vẫn đi theo đàn bò, nghĩ rằng: “Ta cũng là con bò, ta cũng là con bò”. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, ở đây Tỳ-kheo đi theo sau lưng chúng Tỳ-kheo, nghĩ rằng: “Ta cũng là Tỳ-kheo, ta cũng là Tỳ-kheo”. Nhưng vị ấy không có ước muốn thọ trì tăng thượng giới học như các Tỳ-kheo khác. Vị ấy không có ước muốn thọ trì tăng thượng định học như các Tỳ-kheo khác. Vị ấy không có ước muốn thọ trì tăng thượng tuệ học như các Tỳ-kheo khác. Tuy vậy, vị ấy vẫn đi theo sau lưng chúng Tỳ-kheo, nghĩ rằng: “Ta cũng là Tỳ-kheo, ta cũng là Tỳ-kheo”.

Do vậy, này các Tỳ-kheo, cần phải học tập như sau: “Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta để thọ trì tăng thượng giới học. Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta để thọ trì tăng thượng định học. Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta để thọ trì tăng thượng tuệ học. Như vậy, này các Tỳ-kheo, các thầy cần phải học tập”.

3. Trì Như Lai tạng

Trì nghĩa là nắm lấy, giữ chắc, không để hư hao, mất đi. Trì Như Lai tạng có hai nghĩa:

1/ Một là, giữ gìn, nắm vững chắc ba tạng kinh điển của Đức Như Lai là Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Trong quyển Giáo trình Phật học 4 của Chan Khoon San, Lê Kim Kha dịch, đã chỉ ra rằng những lời của Đức Phật nói ra, ban đầu được gọi là giáo pháp, bao gồm ba phương diện đó là: Giáo lý, Thực hành và Chứng ngộ. Toàn bộ giáo pháp được lưu giữ lại trong kinh điển được gọi là Tam tạng kinh (Tipitaka). Tam tạng kinh chứa đựng những lời dạy của Đức Phật do chính Ngài nói ra trong hơn 45 năm, từ sau khi Ngài giác ngộ thành đạo cho đến khi nhập Niết-bàn.

 Kinh tạng (Sutta Pitaka), bao gồm các bài giảng của chính Đức Phật hoặc các Đại đệ tử thuyết giảng khi còn tại thế. Hiện tại Phật giáo có 2 hệ kinh tạng đó là tạng kinh Nam truyền và Bắc truyền. Luật tạng (Vinaya Pitaka), chứa đựng lịch sử phát triển của Tăng-già cũng như các giới luật của người xuất gia, ra đời vài mươi năm sau khi Phật nhập Niết-bàn. Luận tạng (Abhidhamma Pitaka - A-tỳ-đạt-ma) do các luận sư, Đại đệ tử của Đức Phật triển khai giáo lý của Ngài. Tam tạng kinh (Tipitaka) trong tiếng Pali có nghĩa là “Ba cái giỏ”  (Ti = ba, Pitaka = cái giỏ). Có một giải thích rằng Tam tạng không chỉ mang ý nghĩa là vật chứa đựng mà mang ý nghĩa ‘truyền thừa’ hay chuyền tay cho nhau, giống những người thợ chuyền những giỏ đất hay cát từ người này đến người kia theo một hàng dài cho đến cuối cùng để sử dụng, cũng giống như những cái giỏ chứa giáo pháp được chuyền tay, truyền thụ qua nhiều thế kỷ từ người thầy cho đến những học trò. Một giải thích khác khá phổ biến: Tạng là kho chứa, Tam tạng là ba kho chứa lần lượt là Kinh, Luật và Luận.

2/ Hai là, giữ gìn, nắm vững, không để cho hư hoại, mất đi Như Lai tạng, tức Phật tánh, vốn có trong mỗi người, cái Thánh thai, cái thai chứa một Như Lai sẽ xuất hiện trong tương lai (chúng sanh là Phật sẽ thành). Đây là ý nghĩa rất quan trọng của Trì Như Lai tạng, là quyết tâm, hạnh nguyện của một đệ tử của Đức Phật, tất nhiên phải là của vị trụ trì.

 Muốn thế, phải tu tập, thực hành Tứ vô lượng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả.

Từ được chuyển nghĩa từ tiếng Phạn là Maitri, nghĩa là khả năng hiến tặng niềm vui, hạnh phúc cho tha nhân…

Bi, tiếng Phạn là Karuna, là khả năng lấy đi nỗi đau, làm vơi bớt nỗi đau khổ nơi tha nhân. Lấy đi nỗi đau, làm vơi bớt nỗi đau không phải bằng một phép màu nào đó, chắc chắn cũng sẽ không có một phép màu như thế trong cuộc đời này. Chúng ta làm vơi bớt nỗi đau của người khác, của cuộc đời bằng cách giúp chính con người đó nhận thức và chuyển hóa các phiền não, chuyển hóa các cách nhìn cuộc sống, chuyển hóa các tâm lý tiêu cực, xấu trở thành tích cực, tốt đẹp hơn.

Yếu tố thứ ba là Hỷ, tiếng Phạn là Mudita, nghĩa là niềm vui không điều kiện, tùy hỷ. Thường thấy ai hạnh phúc, chúng ta chưa hẳn đã vui theo, vui vì điều đó. Con người thường vị kỷ, hay đố kỵ, ghen tỵ với thành công của người khác. Những tâm lý xấu này là chất liệu xây nên bức tường ngăn cách, làm khổ nhau giữa mọi người trong xã hội, trong cộng đồng mà mình sống, trong công ty, đơn vị mà mình làm việc. Hỷ là tâm vui cái vui của mọi người, hạnh phúc vì thấy người khác thăng tiến, thành công, một niềm vui không ràng buộc và không bị điều kiện hóa bởi nhiều quan hệ khác.

Thứ tư là Xả, tiếng Phạn là Upeksha, là sự buông xả, không nắm giữ khư khư với những điều kiện cụ thể. Thiền sư Nhất Hạnh đã từng nói đến việc cần thiết phải có tâm Xả trong cuộc đời, thầy ví mỗi người chúng ta là một bông hoa đẹp. Để vẻ đẹp của bông hoa hiển lộ, chúng ta cần tạo không gian bên trong và cả bên ngoài để bông hoa đó tỏa chiếu vẻ đẹp của nó. Xả ở đây chính là sự hiến tặng không gian cần thiết ấy.

Bốn tâm vô lượng Từ, Bi, Hỷ và Xả không phải là lý thuyết, không phải là tri thức, là thuật đối nhân xử thế kiểu đắc nhân tâm, mà chính là phương pháp tu tập, rèn luyện tâm, cần phải thực hành để chuyển hóa những tâm lý tiêu cực, phá bỏ những bức tường ngăn cách làm trở ngại sự giao tiếp giữa trái tim với trái tim, mình có thể có tình thương, có sự tôn trọng lẫn nhau một cách chân thật hơn. Và như vậy, có sự an lạc, thảnh thơi và hạnh phúc lâu bền hơn, như lời của Thiền sư Thiền Lão một ngàn năm trước, đáp lời của vua Lý Thái Tông: “Sống ngày nay, biết ngày nay/ Nặng lòng chi, những tháng ngày đã qua!”.

4. Vị trụ trì ngày nay

Trong mọi thời, xưa cũng như nay, những phẩm chất căn bản của vị trụ trì không hề thay đổi. Thế nhưng trong thời hiện đại, vị trụ trì cần có những kiến thức, thông tin mới. Nếu biết sử dụng khéo léo những phương tiện truyền thông hiện đại, vị trụ trì sẽ dễ dàng hơn trong các Phật sự của mình.

Vị trụ trì là một Tăng sĩ vừa là một công dân. Tôn chỉ là Đạo pháp và Dân tộc, phụng sự Đạo và Đời, đúng như lời Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người...”.

Trong lúc hành đạo, mọi tổ chức, sinh hoạt đều phải đúng theo quy định của Giáo hội và luật pháp của Nhà nước. Văn kiện chủ yếu cần nắm vững căn bản nhất là Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (được tu chỉnh trong Đại hội VII) và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP, Chương III và Chương IV, ấn định về tổ chức và hoạt động của tôn giáo.

Nói tóm lại, ngôi chùa là chốn thiêng liêng, việc thực hiện các Phật sự của vị trụ trì là một nhiệm vụ thiêng liêng.

Tự viện tịnh xá chùa chiền

Cơ sở truyền thống nối duyên đời đời

Phật Pháp Tăng bảo tuyệt vời

Bóng mát nương tựa độ người thoát mê

Ma-ha Bát-nhã lần về

Tìm lại chơn tánh Bồ-đề ngày xưa

Trụ vương gia pháp thuyền đưa

Trì Như Lai tạng thượng thừa hồng ân.

PV.Minh Đăng Quang, mùa An cư PL.2560
HT.Thích Giác Toàn

 _______________________

(1) https://vi.wikipedia.org/wiki/Đạo_sư

(2) Theo Phật Quang đại từ điển, bản dịch của SM.Thích Quảng Độ, Nxb Phương Đông, 2014, tr.1851.

(3) ĐTKVN, Tăng chi bộ kinh, chương 3, phẩm Ananda, phần Sa-môn [lược].

(4) Chan Khoon San, Lê Kim Kha (dịch), Giáo trình Phật học, Nxb Phương Đông, 2012, tr.457.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Vô thường

Lá vàng ắt phải rụng rơi...

GNO - Sớm nay, tôi ghé chùa lễ Đức Quán Âm. Tôi thấy ba vị Tăng cử hành một nghi thức trước đài Quán Âm. Một cỗ quan tài nhỏ, thật gọn, có lẽ bằng ván ép được bốn người khiêng nhẹ nhàng, cúi đầu lễ tôn tượng rồi di chuyển ra khỏi cổng chùa. Ra là một vị cao tuổi ở nhà dưỡng lão của chùa vừa qua đời tối qua.

Thông tin hàng ngày