Thành Vương Xá (Rājagaha, Rajgir)

Cổng thành Vương Xá
Cổng thành Vương Xá

NSGN - Vương Xá (Rājagaha) thuộc quận Nalanda, tiểu bang Bihar, cách Boddhagaya khoảng 46km và thủ phủ 60km về hướng Đông nam...

Sơ lược lịch sử

Vương Xá (Rājagaha) thuộc quận Nalanda, tiểu bang Bihar, cách Boddhagaya khoảng 46km và thủ phủ Patna 60km về hướng Đông nam. Bên cạnh tên gọi Rājagaha được dùng trong kinh điển Pāli, địa danh này còn có nhiều tên gọi khác như Vasumati, Barhadrathapura, Girivraja, Kusagrapura và Rajgir. Tên gọi Kusagrapura được ngài Huyền Trang nhắc đến trong ký sự của mình, nhưng Huyền Trang nói rằng tên gọi này chỉ dành gọi kinh thành cũ, nơi luôn bị đe dọa bởi nạn hỏa hoạn. Còn kinh thành mới được xây lại sau đó thì có tên gọi Rājagaha, là kinh đô của vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) với vị vua trị vì là Bimbisara (Tần-bà-sa-la).

Lịch sử hình thành nên kinh thành này vẫn chưa được biết rõ, tuy có một số hiện vật bằng đất sét được tìm thấy nơi đây có niên đại một ngàn năm trước Tây lịch. Theo Thiên anh hùng ca Ramayana của Ấn giáo thì Rājagaha do Vasu, người con thứ tư của Brahma xây dựng. Nhưng đó chỉ là huyền thoại. Lịch sử của kinh thành chỉ có thể được bắt đầu từ vua Bimbisara. Và việc xác nhận kinh thành ngày nay chủ yếu dựa theo hai cuốn ký sự của ngài Pháp Hiển và Huyền Trang.

Rājagaha có thể nói là mảnh đất gắn liền với Phật giáo. Thái tử Siddhattha sau đêm vượt thành xuất gia đã tìm đến nơi này khởi đầu cho việc tìm đạo. Tại nơi đây, vua Bimbisara khi nhìn thấy ngài khất thực trên đường đã cố nài nỉ Ngài từ bỏ con được tu sĩ, quay trở lại đời sống thế tục để thụ hưởng những vui thú thế gian mà một bậc vương tử đang có, và hứa sẽ chia quyền cai trị vương quốc của mình cho ngài nếu ngài nghe theo lời khuyên của mình. Nhưng khi nhận thấy lời nói của mình không lay chuyển được ý chí của một vị tu sĩ trẻ, nhà vua đã thôi không thuyết phục nữa mà mời vị tu sĩ trở về viếng thăm kinh thành khi mục đích thành tựu. Vị tu sĩ hứa với nhà vua sẽ quay trở lại, sau đó rời kinh thành này, đi đến nhiều nơi tìm thầy học đạo.

Sau sáu năm tu tập, vị thái tử năm xưa đã chứng đắc đạo quả và trở thành một vị Phật. Nhớ lại lời hứa trước đây với nhà vua, vào năm đầu tiên sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật đã trở về Rājagaha để viếng thăm nhà vua. Khi Đức Phật trở lại nơi đây, nhà vua và quần thần của ông đã đón tiếp Ngài cùng các đệ tử rất long trọng. Trong lần viếng thăm này, nhà vua đã cúng dường lên Đức Phật Trúc Lâm tịnh xá (Veluvana) để làm nơi cư trú cho Tăng chúng. Và cũng trong lần này, Đức Phật đã thâu nhận hai vị đại đệ tử là Xá Lợi Phất (Sariputta) và Mục Kiền Liên (Mogallana). Bên cạnh đó, trong lần này cũng có rất nhiều dân chúng của Rājagaha phát tâm quy y và xuất gia theo Ngài, đặc biệt trong số này có Purana Kassapa, Makkhali Gosala, Ajita Kesakambali, Pakudha Kaccayana, Nigantha Nattaputta, Sanjaya Belatthaputta, Upatissa, Kolita, Abhaya và Upāli…

Đức Phật đã an cư mùa mưa đầu tiên tại tịnh xá Trúc Lâm, và sau khi kết thúc kỳ an cư, Ngài đã lên đường trở về Capilavatthu để thăm lại quê hương sau nhiều năm xa cách. Theo Buddhavamsa (Phật sử) của Sri Lanka thì Đức Phật đã trải qua năm kỳ an cư tại kinh thành này. Ngoài lần đầu tiên ra, Ngài còn ở đây vào các lần thứ ba, thứ tư, thứ mười bảy và hai mươi tính theo thứ tự trong 45 năm thuyết pháp độ sanh của Ngài. Ngoài các kỳ an cư, Đức Phật hẳn đã đến nơi đây nhiều lần, vì có rất nhiều bài kinh cũng như giới luật được thuyết giảng và chế định tại Rājagaha trong những bối cảnh khác nhau.

Cũng tại nơi đây, Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) vì tham vọng, đã có những hành động bất thiện đối với Đức Phật. Ông đã từng cho lăn đá, thả voi say Nalagiri... nhằm hãm hại Đức Phật, nhưng những việc làm ấy đều thất bại. Đề-bà-đạt-đa còn cấu kết với thái tử A-xà-thế (Ajatasatru), cùng làm những điều bất chính. Một người thì tìm cách đoạt ngôi từ cha mình, còn một người thì lập mưu hãm hại bậc Đạo sư của mình, nhằm giành lấy ngôi vị lãnh đạo Tăng đoàn.

Sau khi Đức Phật nhập diệt, Rājagaha được các Tỳ-kheo chọn làm nơi kiết tập kinh điển lần thứ nhất. Kỳ kiết tập diễn ra tại động Sattapanni, dưới sự chủ trì của ngài Ca Diếp và sự bảo trợ của vua A-xà-thế. Nhà vua cũng cho dựng một ngôi tháp tại đây để thờ xá-lợi của Thế Tôn mà ông nhận được tại Kusinagar.

Lịch sử về Rājagaha chỉ được biết rõ vào khoảng thời gian thế kỷ thứ V trước Tây lịch nhờ vào những kinh sách của Phật giáo.Sau đó vị trí chính trị xã hội của nơi này không còn được chú ý khi hậu duệ của vua A-xà-thế đã dời đô về Pataliputta. Nhưng dù Rājagaha không còn là kinh đô sau đó, nó vẫn còn là một trung tâm Phật học và là một nơi hành hương nổi tiếng của các Phật tử trong những thế kỷ tiếp theo. Sự kiện vua Ashoka sau một thời gian lên ngôi đã đến chiêm bái nơi này, cho dựng một ngôi tháp và trụ đá, cho thấy sinh hoạt Phật giáo vẫn còn tồn tại ở đây vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch.

Khi Pháp Hiển đến chiêm bái nơi này vào đầu thế kỷ thứ V, ngài mô tả rằng Rājagaha đã đổ nát, nhưng bên ngoài kinh thành vẫn còn có một số tự viện và có các Tăng sĩ sống ở đó. Ngài Pháp Hiển cũng đề cập đến nhiều địa danh và chùa tháp ở tại nơi đây, như núi Linh Thứu, tháp do vua A-xà-thế xây để thờ xá-lợi của Đức Phật, tháp do vua Ashoka dựng, và những ngôi chùa tháp khác. Theo ngài Pháp Hiển thì có hai thành Vương Xá, một cũ và một mới: “Đi về phía Tây khoảng một dặm sẽ đến kinh thành mới của Vương Xá. Thành này do vua A-xà-thế lập ra, giữa thành có hai ngôi chùa. Ra khỏi cửa thành phía Tây sẽ đến một ngọn tháp, do vua A-xà-thế dựng lên để thờ xá-lợi Đức Phật mà xưa kia vua được chia một phần. Ngọn tháp này đồ sộ, đẹp đẽ và tôn nghiêm. Ra cửa thành phía Nam, đi độ bốn dặm về phía Nam, chúng tôi đến một thung lũng, thung lũng này đưa đến năm ngọn đồi; năm ngọn này như một bức thành bao bọc một vùng đất rộng, đó là thành Vương Xá cũ của vua A-xà-thế. Thành này rộng từ Đông sang Tây độ 5, 6 dặm, từ Bắc đến Nam độ 7, 8 dặm. Chính tại chỗ này ngài Xá Lợi Phất và ngài Mục Kiền Liên lần đầu tiên nhận chân được diệu pháp, cũng là chỗ mà Ni-kiền-đà đào một hố sâu đầy lửa và dâng đồ ăn có thuốc độc cho Đức Phật. Và cũng là chỗ mà con voi say cuồng của vua A-xà-thế chạy đến để hại Đức Phật và đã được Đức Phật hàng phục”.

Ngài Huyền Trang đến đây thế kỷ thứ VII đã mô tả kinh thành này rất chi tiết. Ngoài những gì Pháp Hiển đã nói, ngài còn đề cập đến nhiều địa danh khác và những sự kiện liên quan đến mỗi địa danh, như nơi Đức Phật thuyết kinh Diệu pháp liên hoa (Saddharma-pundarika), phiến đá nơi Tôn giả Ananda ngồi thiền định và bị quỷ sứ dọa nạt, nơi ngài Xá Lợi Phất cùng các vị đại A-la-hán nhập định, tảng đá nơi Đức Phật phơi áo cà sa, các suối nước nóng và nước lạnh, nơi ngài Ca Diếp cùng 499 vị A-la-hán đã triệu tập hội nghị kiết tập kinh điển...

Có thể nói rằng hai cuốn ký sự của ngài Pháp Hiển và Huyền Trang là những tài liệu quý giá nhất còn lại trong việc tìm hiểu về lịch sử Rājagaha. Hầu hết các chùa tháp như được đề cập đến trong hai cuốn ký sự ngày nay đã không còn tìm thấy, nhưng các địa điểm như những hang động, đồi núi, suối nước nóng… vẫn còn nhận diện được. Rājagaha bắt đầu được khảo sát vào những năm đầu của thế kỷ XX, và tất cả chẳng còn gì ngoài những tường thành đổ nát và một số nền chùa tháp vùi dưới lòng đất. Nhưng căn cứ trên những bờ thành này, các nhà khảo cổ, dựa theo hai cuốn ký sự của Pháp Hiển và Huyền Trang, đã tìm đến những địa danh khác liên quan đến Phật giáo.

Những địa điểm chiêm bái

Trong số các địa danh được xác định có thể kể đến Veluvana (Trúc Lâm tịnh xá), ngôi nhà đá Pippala, hang động Sattapanni, ngục tù Bimbisara, vườn xoài Jivaka, núi Gijjhakuta (Linh Thứu), Maddakucchi…

Tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana)

Trúc Lâm là một trong số những ngôi tịnh xá nổi tiếng vào thời Đức Phật. Tịnh xá này do vua Bimbisara cúng dường Đức Phật nhân lần đầu Ngài viếng thăm Vương Xá sau khi giác ngộ. Tại nơi đây, Đức Phật đã thuyết giảng nhiều bài kinh và cũng thâu nhận nhiều đệ tử xuất gia cũng như tại gia. Trúc Lâm được mô tả là một nơi lý tưởng cho việc tu tập, nhưng cũng thuận tiện cho các hàng đệ tử đến nghe pháp. Thời Đức Phật, trước cổng tịnh xá có hai ngôi tháp thờ Tôn giả Mục Kiền Liên và Kiều Trần Như. Vị trí ngôi tịnh xá này được xác định là nằm giữa thành Vương Xá mới và những ngọn đồi bao quanh thung lũng. Ngày nay nó cách các suối nước nóng vào khoảng 150m về hướng Bắc, gần những ngôi đền của Hindu và Hồi giáo. Trong tịnh xá có một hồ nước có tên là Kalandanivāpa (hay Karaṇḍa kanivāpa) từng được nhắc đến trong kinh điển Phật giáo, là nơi Đức Phật thường tắm rửa. Ngài Huyền Trang có nhắc đến hồ nước này trong ký sự của mình. Cách hồ nước này không xa về hướng Nam có một gò đất lớn, xung quanh có một số ngôi mộ của người Hồi giáo, được cho là khu tịnh xá Trúc Lâm cũ. Toàn cảnh khu vườn này không có gì đặc biệt ngoài cây xanh và trúc, nhưng nhìn chung nó được chăm sóc và bảo quản tốt, có người quét tước cũng như canh giữ.

Hang động Sattapanni

Hang động Sattapanni là nơi diễn ra kỳ kiết tập kinh điển lần thứ nhất, bốn tháng sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn. Hang động này nằm trên một ngọn đồi. Chúng tôi chiêm bái nơi này vào một sáng sớm đầy gió và se lạnh. Ở dưới chân đồi, dù còn sớm nhưng đã thấy rất đông người, nhưng hầu hết họ đến đây để tắm và lấy nước ở những con suối nước nóng ở chân đồi chứ chẳng có ai trèo lên núi để chiêm bái hang động này. Đường lên động, sẽ đi qua một nền đá hình chữ nhật cao khoảng 7 đến 8m với chiều dài 29m và chiều rộng 25m, được cho là nhà Pippala, nơi Tôn giả Ca Diếp đã từng cư trú như được đề cập trong kinh điển Pāli. Theo Đại phẩm, Tương ưng bộ kinh V, tại nơi đây nhân một lần Tôn giả Ca Diếp bị bệnh nặng, vào một buổi chiều Đức Thế Tôn sau khi xả thiền đã đến thăm tôn giả và thuyết giảng về Thất giác chi, và sau khi nghe giáo lý này Tôn giả Ca Diếp đã thoát khỏi bệnh.

Hang động Sattapanni như được mô tả trong sách sử là chứa đến năm trăm vị A-la-hán, nhưng diện tích hiện nay trông hết sức khiêm tốn. Tôi không rõ chiều sâu của hang động bao nhiêu, vì quá tối mà không có dụng cụ chiếu sáng nên không thể vào được, nhưng nghe nói là sâu khoảng 36m. Một số nhà khảo cổ vẫn còn nghi ngờ về địa điểm này, và không biết có phải vì lý do này hay không mà ở đây người ta không cắm bảng như ở những nơi khác, và cũng chẳng thấy có sự đầu tư nào cho địa danh này. Nó chỉ là một hang động nhỏ nép mình hiu hắt bên vách núi đá quay mặt xuống thung lũng. Nhưng dù chưa được xác quyết một cách chắc chắn và không được bảo quản thì động núi này vẫn thu hút các Phật tử chiêm bái khi họ đến Vương Xá. Ở đó có bệ thờ để cho khách hành hương dâng hương hoa, và cũng có cả người bán hoa ở đó. Và cũng có cả người dẫn đường nếu người nào chưa biết đường lên hang động này.

Linh Thứu (Gijjhakuta)

Linh Thứu được xem là một địa điểm quan trọng tại Vương Xá. Địa điểm này là nơi Đức Phật nhiều lần đến thuyết giảng.Đường lên núi tuy khá cao nhưng tương đối dễ đi vì đã được lát đá. Con đường này từng được gọi là đường Bimbisara, bởi vì vào thời Đức Phật, nhà vua đã cho xây nó để ông được thuận tiện mỗi khi thăm viếng Đức Phật lúc Ngài trú trên Linh Thứu. Con đường ngày nay hẳn nhiên là mới xây lại sau này. Đến gần đỉnh núi, có hai hang động nhỏ, được cho là nơi hai Tôn giả Xá Lợi Phất và A-nan đã từng trú ngụ. Trên đỉnh núi có một nền gạch, được xác nhận là hương thất của Đức Phật. Và có lẽ điểm quan trọng nhất đối với khách chiêm bái Linh Thứu là nơi này. Ở nơi đây, người hành hương có thể tụng kinh hay kinh hành quanh hương thất.

Theo văn học Đại thừa thì Linh Thứu chính là nơi Đức Phật đã thuyết kinh Pháp hoa (Saddharmapundarika Sutra), kinh Thủ lăng nghiêm tam muội (Surangama Samadhi Sutra), Kinh Bát-nhã (Prajna-paramita Sutras). Và vì vậy địa điểm này rất đặc biệt đối với những Phật tử theo truyền thống Đại thừa, trong đó phải nói đến Nhật Bản, nơi mà Liên hoa tông rất thịnh hành. Một bên đỉnh núi này, có ngôi tháp Vishwa Shanti rất lớn và một ngôi chùa của Nhật Bản. Để lên tháp, khách hành hương có thể trèo núi nhưng cũng có thể đi bằng cáp treo, một công trình do chính người Nhật đầu tư. Trong các nước theo Phật giáo Bắc truyền, có thể nói Nhật Bản là quốc gia có đóng góp rất lớn trong việc khảo cổ cũng như kiến tạo lại các thánh tích ở Ấn Độ.

Vườn xoài Jivaka

Jivaka (Kỳ-bà) là một vị y sĩ danh tiếng vào thời Đức Phật. Ông là con trai của Sālavatī, một kỹ nữ nổi tiếng tại Vương Xá. Bà Sālavatī sau khi sanh nở, đã đem con mình bỏ tại một đống rác. Và cậu bé này được Thái tử Abhayarājakumāra nhìn thấy và mang về nuôi. Khi lớn lên, ông rời hoàng gia và ra đi học nghề thuốc. Sau bảy năm học tập, ông trở thành một thầy thuốc tài giỏi, đi khắp nước trị bệnh cho mọi người, và ông rất được vua Bimbisara và Ajatasatru trọng dụng. Ông cũng là một đệ tử thân tín của Đức Phật. Sự kiện ông trở thành đệ tử của Đức Phật được mô tả trong bài kinh số 55, Trung bộ kinh II. Bài kinh này thuật rằng, khi nghe Đức Phật thuyết giảng một số vấn đề liên quan đến việc thực hành hạnh ly tham, sân, si, thực tập từ bi và thọ nhận thực phẩm, Jivaka đã phát tâm quy y theo Ngài. Sau đó, ông đã cúng dường vườn xoài của mình lên Đức Phật để Ngài làm nơi cư trú cho Tăng chúng. Ông cũng là người đã điều trị vết thương nơi chân Đức Phật khi bị Đề-bà-đạt-đa lăn đá ở núi Linh Thứu.

Theo kinh Samannaphala, Trường bộ kinh, thì Jivaka cũng là người đã thuyết phục vua Ajatasatru đến viếng thăm Đức Phật; và sau khi nghe Đức Phật thuyết giảng, nhà vua đã chứng đắc được quả Dự lưu. Jivaka cũng cho xây dựng một tịnh xá nơi đây. Trong các kinh điển hệ Pāli, khu vườn này được mô tả nằm giữa cổng thành hướng Đông và núi Linh Thứu. Khi Huyền Trang viếng thăm nơi này thì ngài thấy ở đây có một bảo tháp; và nền tịnh xá cũng như nhà của Jivaka vẫn còn. Việc xác định khu vườn xoài của Jivaka ngày nay chủ yếu vẫn dựa theo cuốn ký sự này.

Ngục giam Bimbisara

Ngục giam Bimbisara, chỉ còn là một nền đá rộng vài chục mét vuông. Chính tại đây vua Bimbisara đã bị người con của mình là Ajatasatru giam giữ. Theo kinh sách, từ nơi ngục giam này vua Bimbisara có thể nhìn thấy Đức Phật khi Ngài ở Linh Thứu.Và nhà vua đã qua đời ở tại chính ngục giam này. Về sau, Ajatasatru khi nghe Đức Phật thuyết giảng, nhận ra được tình thương và công lao của cha mẹ đối với con cái, ông đã quy y theo Phật, sám hối lỗi lầm xưa bằng những việc làm thiện của mình.

Maddhakucchi

Maddhakucchi nằm dưới chân Linh Thứu. Chính nơi đây, Hoàng hậu Vedehi khi được tiên đoán rằng thai nhi mà bà đang mang trong mình sau này sẽ là một kẻ giết cha, nên đã cố phá bỏ bào thai đó. Nhưng khi vua Bimbisara biết được sự việc, ông đã can ngăn bà. Theo kinh điển Pāli thì thời Đức Phật, nơi đây có một khu vườn nuôi nai và một tu viện. Và cũng chính tại đây, Đức Phật đã bị Đề-bà-đạt-đa lăn đá và bị thương nơi chân.

Cách đến Rājagaha

Sân bay gần nhất là Patna Airport, nằmở thủ phủ của bang Bihar, cách Rājagaha (Rajgir) khoảng 115km. Mặc dù cũng có ga tàu ở Rājagaha, nhưng có lẽ tiện lợi hơn là nên đến ga Gaya và sau đó đi xe đến địa danh này. Rājagaha cách ga Gaya vào khoảng 78km. Về đường bộ, Rājagaha có những tuyến đường nối kết với các thành phố lớn của tiểu bang Bihar như Patana và Gaya . Nhưng thông thường đối với những người chiêm bái là Phật tử, việc đi đến Rājagaha thường được thực hiện sau khi đã đến Bodhgaya, do đó hầu như các chuyến đi đến địa danh này được khởi từ Bodhgaya bằng xe. Về thời điểm chiêm bái, cũng như việc chiêm bái các Phật tích khác ở Ấn, thích hợp nhất là từ đầu tháng mười đến tháng Ba.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Bia tháp Hòa thượng Ẩn Sơn Long Thiền

Bia tháp Hòa thượng Ẩn Sơn Long Thiền

NSGN - Hòa thượng Ẩn Sơn có pháp húy là Thành Nhạc, thuộc đời 34 Thiền phái Lâm Tế, theo kệ phái Đạo Mân Mộc Trần. Hòa thượng là vị Tổ khai sơn chùa Long Thiền, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Học giới cho ngài là đệ tử của Hòa thượng Nguyên Thiều Thọ Tông (1648-1728).
Ví dụ mặt trăng

Ví dụ mặt trăng

NSGN - Tỳ-kheo các thầy phải tu tập giống như mặt trăng, như người mới học, khi đi vào nhà người thì phải nhiếp tâm, kiểm thúc thân, biết hổ biết thẹn, luôn khiêm hạ.
Ảnh: Phùng Anh Quốc

Đức Phật dạy lìa xan tham

NSGN - Chữ “xan tham” là cách dịch của Thầy Minh Châu, với chữ xan là keo kiệt, và tham là tham muốn. Cả hai chữ xan và tham đều có nghĩa gần nhau, đều là chấp có cái gì là “ta” và “của ta” và “muốn gì cho ta”.

Thông tin hàng ngày