Dẫn nhập
Từ khi có văn minh cho đến nay, vấn đề nhận thức đã trở thành một phạm trù luôn đóng vai trò quan trọng trong những vấn đề cơ bản của triết học. Hay nói cách khác, đây là một câu hỏi lớn mà con người luôn muốn khám phá, tìm hiểu, nghiên cứu. Do đó, trong lịch sử triết học của nhân loại, mỗi một trường phái triết học đều có một hệ thống lý luận về nhận thức của riêng mình.
Phật giáo tuy không phải là triết học nhưng bản thân lại mang trong mình những thuộc tính của triết học. Cho nên, Phật giáo trải qua các thời kỳ cũng có những hệ thống lý thuyết riêng về vấn đề nhận thức mang tính đặc trưng của từng bộ phái. Tiêu biểu là có tạng A-tỳ-đạt-ma mà tinh hoa là Thắng pháp tập yếu luận của Phật giáo Theravāda, A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận thuộc truyền thống Nhất thiết hữu bộ. Đến thế kỷ thứ V, VI, Duy thức học ra đời. Trường phái này đã tiếp tục bổ sung, hoàn thiện về nhận thức luận cho Phật giáo.
Nhận thức luận Duy thức cũng giải thích một cách đầy đủ về khả năng nhận thức của con người, về sự xuất hiện và phát triển của nhận thức cũng như về con đường, phương pháp nhận thức…
Và khi trình bày về quá trình nhận thức thì Duy thức học Phật giáo đưa ra thuyết Tam lượng gồm Hiện lượng, Tỷ lượng và Phi lượng. Trong đó, Hiện lượng đặc biệt là Chân hiện lượng chính là cảnh giới hay giá trị nhận thức mà Duy thức học nói riêng và Phật giáo nói chung đang hướng tới để từng bước hoàn thành mục đích cuối cùng là giải thoát.
Bởi lẽ, Chân hiện lượng phản ánh một cách chân thật về vũ trụ nhân sinh, và cũng chứng minh rằng, con người hoàn toàn có thể nhận thức được thế giới nếu hiểu theo lối tư duy của triết học thế gian. Còn nếu trình bày theo quan điểm của Phật giáo thì điều này có nghĩa là phàm phu luân hồi sinh tử hoàn toàn có thể giác ngộ được Tánh cảnh hay bản chất thật sự của vũ trụ nhân sinh, và thành tựu được quả vị Phật.
Chính vì những lý do trên, Chân hiện lượng có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình tu tập của một hành giả.
1. Sơ lược về nhận thức luận Duy thức Phật giáo
1.1. Nhận thức luận là gì?
Nhận thức luận hay tri thức luận (epistemology - επιστημολογία) là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: kết hợp giữa επιστήμη: tri thức và λόγος: học thuyết, là khuynh hướng triết học nghiên cứu về bản chất, nguồn gốc và phạm vi của quá trình nhận thức. Trong triết học, đây là một nội dung đóng vai trò tiên quyết, bởi sự phát triển của lý luận nhận thức có vai trò trong việc lý giải tư tưởng và xác lập tính hệ thống cho mỗi trường phái triết học, cả phương Đông và phương Tây, duy tâm hay duy vật.
Theo từ điển triết học, nhận thức luận là “bộ phận của triết học nghiên cứu quan hệ qua lại giữa chủ thể và khách thể trong quá trình hoạt động nhận thức, quan hệ của tri thức đối với hiện thực, khả năng nhận thức thế giới của con người, tiêu chuẩn của chân lý và tính đáng tin của tri thức”(1).
Trong lịch sử triết học, nhận thức luận là một trong các chủ đề được nghiên cứu và tranh luận nhiều, thậm chí vào thời cận đại ở Tây Âu, đây còn là vấn đề trung tâm của triết học(2). Phần lớn các tranh luận tập trung vào việc nghiên cứu về bản chất, nguồn gốc, và phạm vi của tri thức, sự đa dạng của tri thức cũng như mối quan hệ của nó với các khái niệm như chân lý và niềm tin…
Bàn về lý luận nhận thức, các trường phái triết học trong lịch sử thường tập trung luận giải các vấn đề chủ yếu sau: bản chất của nhận thức, chủ thể và khách thể của quá trình nhận thức, con đường nhận thức, vấn đề chân lý…
Nói một cách đơn giản, nó xem xét câu hỏi: “Bạn làm cách nào để biết điều mà bạn biết?”.
1.2. Nhận thức luận Phật giáo
“Nhận thức luận Phật giáo là một bộ phận của triết học Phật giáo, được đề cập nghiên cứu về nguồn gốc, bản thể, phạm vi, giá trị, phương pháp tư duy của trí óc, của tâm thức theo quan điểm của Phật giáo”(3).
Còn theo Nguyễn Đức Diện, “Nhận thức Phật giáo thực chất là nhận ra bản thể, chân tâm của chính mình, tức giác ngộ. Để đạt được mục đích đấy, người học đạo phải tự mình chứng ngộ lấy chân lý thông qua con đường trực giác”(4).
Đối với Phật giáo, khi đề cập đến nhận thức thì phải nói đến hành động, ngôn ngữ và lý luận. Điều này được thấy rõ trong Tứ diệu đế - một mô thức biện chứng trình bày quan hệ giữa tri nhận và mô tả, nhận thức và hành động, luận lý và thực tiễn(5).
Thông thường, Phật giáo được chia thành ba giai đoạn phát triển là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Bộ phái, Phật giáo Đại thừa. Và nhận thức luận Phật giáo cũng tùy theo từng giai đoạn phát triển ấy mà có một lập trường, quan điểm mang tính đặc thù riêng.
Tóm lại, mục đích của nhận thức luận Phật giáo là giác ngộ, là giải thoát con người khỏi sự đau khổ. Vì vậy, bản chất của nhận thức luận Phật giáo là nhận ra bản thể, chân tâm của chính mình để đạt đến sự giác ngộ. Phương pháp nhận thức ấy là phù hợp với mục đích của đạo: giải thoát những đau khổ tinh thần nơi trần thế cho con người.
1.3. Nhận thức luận Duy thức
Do lấy thức làm trung tâm, cho nên những luận giải về nhận thức của Pháp tướng tông xoay quanh những vấn đề của thức như: bát thức, tam tính, tam lượng.
Duy thức học cho rằng con người có khả năng nhận thức thế giới, và hoạt động nhận thức này gắn liền với hai yếu tố: chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Chính vì thế, nội dung cốt lõi của Duy thức là nói về tương quan không thể tách rời giữa chủ thể nhận thức và đối tượng được nhận thức. Đó là mối quan hệ bất khả phân ly, nghĩa là tâm thức không thể tách lìa khỏi thực tại khách quan và ngược lại, không thể có thực tại khách quan nếu không có tâm thức.
Duy thức học sử dụng phương pháp phân tích tâm (hay thức), và xây dựng lý thuyết Bát thức, còn gọi là tám thức tâm vương gồm: A-lại-da thức, mạt-na thức, ý thức, nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức.
Đặc biệt với A-lại-da thức, Duy thức học của ngài Vô Trước và Thế Thân đã len lỏi vào tận sâu thế giới tâm thức của con người để rồi luận giải những diễn biến của tâm lý con người một cách sâu sắc và hợp lý.
Về sau, nhận thức luận của Duy thức học được ngài Huyền Trang bổ sung và lý giải một cách rõ ràng hơn trong tác phẩm Bát thức quy củ tụng.
Như vậy, nhận thức luận của Duy thức học bàn về những tư tưởng mới về lý luận nhận thức, xác lập nên giáo lý Tám thức, bàn sâu hơn về Tam cảnh, Tam lượng và Tam tự tính…, từ đó giải thích một cách chi tiết và có hệ thống về đối tượng nhận thức, hình thái nhận thức và con đường nhận thức.
2. Lý thuyết về Chân hiện lượng
2.1 Thuyết Tam lượng(6)
Tam có nghĩa là ba. Lượng nghĩa là đo lường, tiêu chuẩn. Chỉ cho nguồn gốc tri thức, hình thức nhận thức và tiêu chuẩn để lượng định về sự chân nguỵ của tri thức. Theo Duy thức tông, Tam lượng gồm Hiện lượng, Tỷ lượng, Phi lượng.
Hiện lượng: cũng gọi Chân hiện lượng: khi tâm đối trước cảnh không có bất cứ sự phân biệt, tính toán nào, chỉ hoàn toàn do tự thể hiện phân minh, nhận biết rõ ràng, cũng tức là các giác quan trực tiếp nhận biết những hiện tượng bên ngoài; sự nhận biết này là nguồn gốc, là cơ bản nhất của tri thức, như thấy khói chỉ biết đó là khói.
Hay nói cách khác, Hiện lượng là chỉ năng lực của năm cảm quan trực tiếp nhận biết những hiện tượng ngoại giới.
Hiện lượng có hai loại: Chân hiện lượng và Tự hiện lượng.
Tỷ lượng: dựa vào đối cảnh đã biết mà so sánh, tính lường để biết một cách chính xác đối cảnh chưa hiện trước và chưa biết, như thấy khói mà suy tính biết có lửa.
Phi lượng: từ gọi chung Tự hiện lượng và Tự tỷ lượng. Tức sự suy tính không chính xác, hoặc sự tình không thể lường biết được.
2.2. Chân hiện lượng
Như đã đề cập, Hiện lượng có hai loại: Chân hiện lượng và Tự hiện lượng. Và nếu như Tự hiện lượng là sự nhận biết tựa hồ như đúng mà thực là sai thì trái lại, sự nhận biết đúng với cảnh diễn ra, không một chút sai trật thì gọi là Chân hiện lượng(7). Hay nói cách khác, Chân hiện lượng là sự nhận biết đúng về trực giác, chưa bị ảnh hưởng bởi những huyễn tướng hoặc tác dụng phân biệt của khái niệm, như thấy sợi dây thì biết ngay đó là sợi dây.
Nhân minh nhập chính lý luận sớ quyển thượng định nghĩa rằng:
“Hành tướng năng duyên không động, không lay, tự chiếu theo cảnh, không tính toán, suy xét, xa lìa tâm phân biệt, phù hợp với cảnh hiện tiền, làm sáng tỏ tự thể nên gọi là Hiện lượng”.
Và Hiện lượng tuy được phân thành hai loại nhưng thông thường Chân hiện lượng được xem như là Hiện lượng. Nghĩa là nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì Hiện lượng thường chỉ cho Chân hiện lượng mà thôi(8). Chính vì vậy, ở đây, người viết cũng sử dụng thuật ngữ Chân hiện lượng ở nghĩa của Hiện lượng.
2.3. Mối quan hệ giữa Chân hiện lượng và Ngũ thần thông trong Phật giáo
2.3.1. Thần túc thông(9)
Tên gọi đầy đủ của Thần túc thông là Thần cảnh trí chứng thông, còn gọi là Thần cảnh thông, Thân như ý thông, Như ý thông, Thân thông. Nghĩa là có thể tự do tự tại đi đến bất cứ nơi nào.
Theo Đại trí độ luận, thần túc thông có 3 thứ như ý:
Một: Năng đáo, có bốn loại:
- Thân có thể bay đi như chim, không bị chướng ngại.
- Dời xa lại gần, không đi mà đến.
- Biến mất ở nơi này, xuất hiện ở nơi kia.
- Chỉ trong một ý nghĩ đã đến nơi.
Hai: Chuyển biến. Nghĩa là lớn biến thành nhỏ, nhỏ biến thành lớn; một biến ra nhiều, nhiều biến thành một; tất cả các vật đều có thể chuyển biến được. Sự chuyển biến của ngoại đạo không quá bảy ngày, còn sự chuyển biến của Phật và các đệ tử thì lâu mau, xa gần đều tự tại.
Ba: Thánh như ý. Tức năng lực quán tưởng vật bất tịnh không đáng ưa thuộc sáu trần là tịnh, quán tưởng vật thanh tịnh đáng ưa là bất tịnh. Pháp Thánh như ý này chỉ Phật mới có.
2.3.2. Thiên nhãn thông(10)
Tên gọi đầy đủ là Thiên nhãn trí chứng thông, cũng gọi là Thiên nhãn trí thông, Thiên nhãn thông chứng, Thiên nhãn trí chứng thông. Đây là năng lực thần thông dùng thiên nhãn chiếu soi rõ sắc xứ của cõi Dục và cõi Sắc. Ngoài ra, Thiên nhãn thông còn rõ biết trạng huống chết đây sinh kia của hữu tình nên còn gọi là Tử sinh trí chứng.
Theo Đại-tỳ-bà-sa luận và Đại trí độ luận thì dùng bốn tĩnh lự căn bản(11) làm chỗ nương mà chứng được nhãn căn tịnh sắc do bốn đại chủng của cõi Sắc tạo ra nên gọi là Thiên nhãn. Vì nhãn căn này có năng lực soi thấy các vật xa gần, thô tế của tự địa và trong sáu đường của hạ địa cho nên gọi là Thiên nhãn thông, lấy tuệ tương ứng với nhãn thức làm thể, tính nó vô ký.
2.3.3. Thiên nhĩ thông(12)
Cũng gọi Thiên nhĩ trí thông, Thiên nhĩ trí chứng thông, Thiên nhĩ thông chứng. Chỉ cho năng lực thần thông dùng thiên nhĩ duyên theo thanh xứ của cõi Dục và cõi Sắc.
Theo Tập dị môn túc luận và Đại trí độ luận thì dùng bốn tĩnh lự căn bản làm chỗ nương mà chứng được nhĩ căn tịnh sắc do bốn đại chủng của cõi Sắc tạo ra nên gọi là Thiên nhĩ. Vì Thiên nhĩ này có năng lực nghe được tiếng trời, tiếng người, tiếng phi nhân và tất cả âm thanh xa gần… của tự địa và hạ địa, cho nên gọi là Thiên nhĩ thông, vốn lấy tuệ tương ứng với nhĩ thức làm thể, tính nó vô ký.
2.3.4. Tha tâm thông(13)
Gọi đầy đủ là Tha tâm trí chứng thông, cũng gọi là Trí tâm sai biệt trí tác chứng thông, Quán tâm tâm số pháp trí chứng thông, Tri tha tâm thông, Tâm sai biệt thông. Chỉ cho năng lực thần thông chứng được trí tha tâm, biết rõ đúng như thực các ý nghĩ sai biệt trong tâm người khác.
Theo Tập dị môn túc luận thì “đối với tâm tầm tứ của các hữu tình khác đều biết đúng như thực; nghĩa là có tâm tham thì biết đúng là có tâm tham, lìa tâm tham thì biết đúng là lìa tâm tham…, đó gọi là Tha tâm trí chứng thông”.
2.3.5. Túc mệnh thông(14)
Gọi đầy đủ là Túc trụ tùy niệm trí chứng thông, cũng gọi là Túc trụ tuỳ niệm trí thông, Túc trụ trí thông, Túc mệnh trí thông, Túc mệnh thông chứng, Thức túc mệnh thông, Túc trụ thông. Đây là năng lực thần thông tùy ý biết rõ tất cả những việc như: sống chết, họ tên, tuổi thọ, khổ vui… của chính mình ở đời quá khứ.
Trí này lấy tuệ làm tự tính, tùy năng lực ghi nhớ, biết rõ năm uẩn hữu lậu của mình và người khác trong các kiếp quá khứ thọ sinh ở cõi Dục và cõi Sắc, vì thế nên gọi là Túc trụ tùy niệm trí.
Theo Đại trí độ luận, bậc Đại A-la-hán và Bích-chi Phật nhớ được 80.000 đại kiếp.
2.3.6. Mối quan hệ giữa Chân hiện lượng và Ngũ thần thông
Ngang qua lý thuyết về Hiện lượng và Ngũ thần thông được trình bày ở phần trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng Thần túc thông, Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông và Túc mệnh thông lần lượt là “chuyển y lần thứ nhất” của thân thức, nhãn thức, nhĩ thức, ý thức; và toàn bộ Ngũ thông này đều thuộc về Hiện lượng (tức Chân hiện lượng). Bởi lẽ, Thần túc thông lấy sự tự tại về thân làm căn bản, Thiên nhãn và Thiên nhĩ thì lấy tuệ tương ứng với nhãn thức, nhĩ thức làm thể. Mà các thức trước này đều thuộc Hiện lượng nên ba thần thông này đương nhiên cũng thuộc cảnh giới Hiện lượng.
Riêng đối với ý thức, tuy đệ lục thức này lấy Mạt-na thức làm cơ sở thẩm định những tri thức tiếp nhận bên ngoài vào, đồng thời nó cũng lấy chấp ngã ở Mạt-na để phân biệt, đánh giá, yêu ghét… Tuy nhiên, ý thức cũng có những thời điểm tồn tại ở hình thái Hiện lượng, đó là ở sát-na đầu tiên, khi nó kết hợp với tiền ngũ thức mà chưa có sự suy luận, phán đoán… về đối tượng. Cho nên, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nhận xét: “Cũng có trường hợp năm thức đầu cộng tác với thức thứ sáu là ý thức trong loại tác dụng nhận thức trực tiếp này: tuy yếu tố tri giác được nối tiếp sau mặt cảm giác, ở đây nhận thức vẫn giữ tính cách trực tiếp, không lẫn lộn yếu tố suy luận, cân nhắc. Thức thứ sáu có nhiều hình thái nhận thức khác nhau, nhưng hiện lượng là một trong những hình thái nhận thức ấy”(15).
Ở đây cả Tha tâm thông lẫn Túc mệnh thông đều lấy tuệ là tự tính. Nếu lấy tuệ làm tự tính thì hoàn toàn vắng bóng sự can thiệp của Mạt-na thức. Hay nói cách khác, lúc này ý thức đang ở hình thái của Hiện lượng, tức Tha tâm thông và Túc mệnh thông cũng thuộc Hiện lượng.
Đến đây, ta có thể đưa ra kết luận rằng cả năm loại thần thông đều thuộc về Chân hiện lượng.
3. Ý nghĩa của Ngũ thông và Hiện lượng đối với quá trình tu tập
Đối với sự tu tập, mỗi một loại thần thông thuộc cảnh giới Chân hiện lượng đều có nhiều giá trị, ý nghĩa xét cả về mặt tự lợi và lợi tha, nhưng ở đây người viết chỉ xin lấy Túc mạng thông để làm ví dụ tiêu biểu.
3.1. Tự lợi
Nói đến Túc mạng thông, ở đây có hai ý nghĩa(16):
Như đã đề cập, túc mệnh là từ ngữ chỉ chung cho những quả báo sai khác như thiện ác, khổ vui… mà con người phải chịu trong một đời, vô lượng đời ở quá khứ. Nếu biết rõ được tình trạng này thì gọi là Túc mệnh thông. Phàm phu nói chung vì không biết túc mệnh nên không sợ quả báo khi làm những việc ác, không sốt sắng đối với các điều thiện. Hay nói cách khác, đối với thiện không muốn tu, không sẵn lòng tu; đối với ác cũng không sợ, cũng không muốn đoạn. Nguyên nhân là do không biết những nghiệp nhân quả báo trong đời quá khứ.
Ở trong truyện cổ Phật giáo có đề cập đến câu chuyện về một vị A-la-hán. Vị này sau khi chứng quả, dùng Túc mạng thông quán xét liền biết được trong đời quá khứ, bản thân tạo ác nghiệp, bị đọa vào địa ngục A-tỳ chịu vô lượng khổ báo mà sinh tâm kinh hãi, trên thân rớm cả mồ hôi máu. Dù là bậc A-la-hán, đã thoát khỏi tam đồ, nhưng khi nhớ đến tình trạng ngày xưa cũng sợ hãi như vậy. Từ đây liên hệ đến phàm phu chúng ta, không ai là không từng đọa lạc trong ác đạo, chưa có ai chưa là chúng sinh của cõi A-tỳ, chẳng có người nào chưa từng trải qua súc sinh, trải qua ngạ quỷ. Hơn nữa, thời gian và số lượng mà chúng sinh trải qua trong ba đường ác phải tính bằng số vô lượng vô biên, nhưng vì cách ấm, lại không có Túc mệnh nên không biết những hiện tượng đáng khiếp sợ này, cho nên ngày nay vẫn dám làm ác, vẫn không chịu tu thiện. Nếu có được Túc mệnh thông thì đây sẽ là phương tiện rất tốt trong việc chuyển đổi nhận thức và tu tập. Lúc này mỗi một người đều sẽ trở thành một hành giả tinh tấn, lời dạy “Phàm làm việc gì phải nghĩ đến hậu quả của nó” tự nhiên hiện tiền. Đây là ý nghĩa thứ nhất của Túc mệnh thông.
Thứ hai, nếu có Túc mệnh thông thì tâm không còn kiêu căng, ngã mạn, tự cao tự đại nữa mà tâm khiêm tốn tự nhiên hiện tiền. Như trong Từ bi thủy sám có dạy:
“Thứ nhất tâm tủi hổ, là tự nghĩ ta với Đức Thích Ca đồng là phàm phu, mà Đức Thế Tôn đã thành đạo đến nay trải qua số kiếp nhiều như cát bụi, chúng ta thì lại còn cùng nhau say đắm lục trần, trôi lăn trong vòng sinh tử, chưa biết bao giờ ra khỏi. Như thế, thật là đáng thẹn, đáng hổ nhất trong thiên hạ”(17).
Không chỉ có Đức Thế Tôn mà ngay cả những người cùng tu hành chung với chúng ta trong quá khứ, những vị ấy đã thành tựu, chứng quả cả rồi; biết bao nhiêu bạn đạo đồng tu cũng đều đã làm Phật, làm Bồ-tát mà bản thân chúng ta vẫn còn rơi vào tình trạng này. Lúc ấy, tâm hổ thẹn sẽ nảy sinh, tâm tự ti sẽ nảy sinh. Đây là tự lợi, có lợi ích đối với mình.
Cho nên thành tựu được loại năng lực này thì chúng ta sẽ có được phương tiện rất hữu hiệu trong sự tu học. Bản thân sẽ rất siêng năng, rất nỗ lực. Bởi vì chính mình rõ biết nỗi khổ của tam đồ ác đạo. Đến lúc ấy thì tự nhiên không dám không quyết chí, không dám không nỗ lực. Hay nói cách khác, năng lực này giúp chúng ta đoạn ác tu thiện, giúp chúng ta nhìn thấu, buông xả, một lòng một dạ chuyên tâm tu học.
3.2. Lợi tha
Còn đối với vấn đề lợi tha thì nếu có Túc mạng thông chúng ta sẽ biết được nghiệp nhân quả báo, nhân địa, hạnh nguyện nhiều đời nhiều kiếp của chúng sinh. Đến khi đó, việc giáo hóa sẽ rất dễ dàng vì đã khế cơ. Cho nên, ở trong rất nhiều bản kinh, dù là thuộc truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền, chúng ta đều có thể dễ dàng bắt gặp rất nhiều trường hợp khi Đức Phật giáo hóa chúng sinh, vì người giảng kinh thuyết pháp, thì chỉ cần với một câu pháp hay bài thoại ngắn, thậm chí lời dạy còn chưa thuyết xong mà người thính thọ đã khai ngộ, chứng quả.
Ở đây người viết xin nêu ra ví dụ về câu chuyện giáo hóa Tôn giả Angulimala của Đức Thế Tôn.
Theo Tiểu bộ kinh, giữa Tôn giả Angulimala và Đức Phật đã có nhân duyên với nhau từ nhiều kiếp quá khứ. Một trong số tiền thân đó, theo kinh Chuyện năm vũ khí thì thuở xưa, tiền thân của Đức Thế Tôn là hoàng tử Pancayudhakumara, còn Tôn giả Angulimala là quỷ Dạ-xoa Silesaloma. Silesaloma đã sát hại rất nhiều người. Nay thấy Pancayudhakumara, Silesaloma cũng tiếp tục muốn sát hại hoàng tử để ăn thịt. Nhưng với sự tự tin và lòng quả cảm, hoàng tử Pancayudha đã khiến cho Dạ-xoa kính phục. Sau đó, hoàng tử tiếp tục nhiếp hóa Silesaloma bằng cách thuyết về sự nguy hiểm của năm ác giới và lợi ích của năm thiện giới, làm Dạ-xoa trở thành nhu thuận, an trú trong năm giới, biến Silesaloma trở thành vị thần rừng cùng với lời khuyên không được phóng dật.
Còn trong đời hiện tại, Tôn giả Angulimala trước khi xuất gia là một tên cướp nổi danh giết người khiến ai cũng phải khiếp sợ, là kẻ mà hễ có mặt thì “các làng trở thành không làng, các thị trấn trở thành không thị trấn, các quốc độ trở thành không quốc độ”(18), là tội phạm truy nã của quốc gia. Và để hóa độ cho Ngài, Đức Thế Tôn đã một mình đi vào rừng Jalini. Sau khi gặp Angulimala, Đức Thế Tôn chỉ nói “Ta đã đứng rồi, này Angulimala! Và ngươi hãy đứng lại!”(19), rồi thuyết bài kệ rằng:
Angulimala, Ta đã đứng rồi.
Với mọi chúng sinh, Ta bỏ trượng, kiếm,
Còn ngươi hữu tình, không tự kiềm chế,
Do vậy, Ta đứng, còn ngươi chưa đứng(20).
Sau khi được nghe pháp thoại ngắn này, Angulimala tỉnh ngộ, quăng bỏ khí giới, đảnh lễ Đức Thế Tôn và xin được xuất gia. Đức Phật đã trả lời: “Thiện lai Tỷ-kheo”. Uy đức của Tôn giả Angulimala được Ngài xác chứng. Và sau một thời gian tinh cần tu tập, Tôn giả chứng được quả vị A-la-hán(21).
Như vậy, với phương tiện từ sự khế cơ mà sự nghiệp giáo hóa chúng sinh được dễ dàng và chóng thành tựu.
Kết luận
Hiện lượng là một bộ phận của Tam lượng. Tam lượng là lý thuyết về hình thái nhận thức đặc trưng của Duy thức học Phật giáo. Trong Tam lượng, Duy thức xem Hiện lượng (tức chỉ Chân hiện lượng) như là một trong những tiền đề cần đạt đến, dù đây không phải mục đích cứu cánh, bởi lẽ, Hiện lượng luôn gắn liền với tánh cảnh và sự nhận thức như thật về các pháp.
Trong bài viết này, người viết đã đề cập đến Ngũ thần thông khi trình bày về Hiện lượng, bởi lẽ, Ngũ thông có thuộc tính của Hiện lượng, đồng thời, đây chính là những phương tiện vô cùng hữu ích đối với sự tu tập của mỗi một hành giả nói riêng và cho sự thuận tiện trong việc nhiếp hóa chúng sinh nói chung. Nếu thành tựu Ngũ thông, hay nói cách khác, nếu hành giả có được sự rõ biết mọi vật, mọi việc đúng như thật thì các vấn đề trong quá trình hạ thủ sẽ được nhận thức và khắc phục, đồng thời, hạnh nguyện lợi tha cũng được thực tiễn ngay trong hiện tại.
Tuy nhiên, để đạt được Ngũ thông không phải là điều đơn giản, cần phải có một sự nhận thức đúng đắn và hành trì dài lâu, nhưng ít ra, ngang qua sự tìm hiểu về Hiện lượng của Duy thức, mỗi một người cũng sẽ trang bị được cho bản thân mình phần nào tư lương cần thiết cho quá trình nhận thức và thực tiễn được sự nghiệp lợi hành, hóa tha.
_______
(1)Nguyễn Thị Thắng, Nhận thức luận trong Duy thức học,Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học Xã hội, tr.26.
(2)Trần Huy Tạo, Vài nét về nhận thức luận trong triết học Phật giáo, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số tháng 7-2016, tr.25.
(3)TK.Giác Chinh, Phương thức nhận thức trong nhận thức luận Phật giáo, http://daophatkhatsi.vn/detail.php?exseo=phat-giao-cac-nganh/phat-giao-va-triet-hoc/phuong-thuc-nhan-thuc-trong-nhan-thuc-luan-phat-giao&page=2, 31-03-2013.
(4)Nguyễn Đức Diện, Quan niệm về nhận thức trong triết học Phật giáo Việt Nam, https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/nhan_thuc_trong_triet_hoc_phat_giao_viet_nam-5.html, 09-08-2019.
(6)Thích Quảng Độ (dịch), Phật Quang đại từ điển, NXB.Phương Đông, 2014, tr.5379.
(7)Thích Quảng Độ (dịch), Sđd, tr.954.
(8)Thích Quảng Độ (dịch), Sđd, tr.238.
(9)Thích Quảng Độ (dịch), Sđd, tr.3913, 6001, 6002.
(10)Thích Quảng Độ (dịch), Sđd, tr.6398.
(11)Tức chỉ Tứ thiền Sắc giới.
(12)Thích Quảng Độ (dịch), Sđd, tr.6401, 6402.
(13)Thích Quảng Độ (dịch), Sđd, tr.5784.
(14)Thích Quảng Độ (dịch), Sđd, tr.57.
(15)Thích Nhất Hạnh, Vấn đề nhận thức trong Duy thức học, NXB.Lá Bối, 1969, tr.25.
(16)Thích Quảng Độ (dịch), Sđd, tr.7238.
(17)Thích Huyền Dung (dịch), Từ bi thuỷ sám pháp, NXB.Tôn Giáo, 2008, tr.30.
(18)Thích Minh Châu (dịch), Trung bộ kinh, tập 2, kinhAngulimala, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1992, tr.578.
(19)Sđd, tr.580.
(20)Nt.
(21)Sđd, tr.581, 587.
Tài liệu tham khảo
Thích Minh Châu (dịch), Trung bộ kinh, tập 2, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1992.
Thích Huyền Dung (dịch), Từ bi thủy sám pháp, NXB.Tôn Giáo, 2008.
Thích Quảng Độ (dịch), Phật Quang đại từ điển, NXB.Phương Đông, 2014.
Thích Nhất Hạnh, Vấn đề nhận thức trong Duy thức học, NXB.Lá Bối, 1969.
Nguyễn Thị Thắng, Nhận thức luận trong Duy thức học,Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học Xã hội.
Trần Huy Tạo, Vài nét về nhận thức luận trong triết học Phật giáo,Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số tháng 7-2016.
TK.Giác Chinh, Phương thức nhận thức trong nhận thức luận Phật giáo,http://daophatkhatsi.vn/detail.php?exseo=phat-giao-cac-nganh/phat-giao-va-triet-hoc/phuong-thuc-nhan-thuc-trong-nhan-thuc-luan-phat-giao&page=2, 31-03-2013.
Nguyễn Đức Diện, Quan niệm về nhận thức trong triết học Phật giáo Việt Nam, https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra cuu/nhan_thuc_trong_triet_hoc_phat_giao_viet_nam-5.html, 09-8-2019.
(NSGN 353)