Các bậc danh tăng, chư tôn đức tiêu biểu của Phật giáo được đặt tên đường tại TP.HCM

Ảnh: Nguyên Tài/BGN
Ảnh: Nguyên Tài/BGN
0:00 / 0:00
0:00
GNO - Sau bài “Có hay không tên đường Thích Thiện Hòa, Thích Mật Thể?”, nhiều bạn đọc phản hồi bày tỏ niềm hoan hỷ bởi sự tôn vinh về phương diện văn hóa, lịch sử đối với chư vị tôn đức thời hiện đại.

Một số ý kiến mong muốn được biết thêm rằng trên địa bàn thành phố còn những tuyến đường nào khác mang đạo hiệu của chư Tăng, Ni, tên các danh nhân, địa điểm gắn với lịch sử Phật giáo.

Tại kỳ họp thứ 2 HĐND TP.HCM khóa X (nhiệm kỳ 2021-2026) vào ngày 24-7-2025, UBND TP.HCM đã có tờ trình gửi HĐND thành phố về việc đặt tên đường và điều chỉnh lý trình.

Theo tờ trình, UBND TP.HCM đề xuất đặt tên cho hơn 50 tuyến đường thuộc các phường, xã: Sài Gòn, Bình Thới, Tân Thới Hiệp, Thới An, Đông Hưng Thuận, Bà Điểm, Đông Thạnh, Hóc Môn, Xuân Thới Sơn. Đồng thời, đề xuất điều chỉnh lý trình 7 tuyến đường trên địa bàn các phường Tân Hưng, Tân Thuận và An Phú Đông.

Trong đó đổi tên đường Vành Đai Đầm Sen (P.Bình Thới) thành đường Giác Viên với chiều dài 415,31m, lộ giới 16m, đoạn từ đường Lạc Long Quân đến chùa Giác Viên.

Bảo tháp chư vị Tổ sư trong khuôn viên chùa Giác Viên
Bảo tháp chư vị Tổ sư trong khuôn viên chùa Giác Viên

Chùa Giác Viên được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia năm 1988, được bổ sung vào Ngân hàng tên đường và công trình công cộng thành phố theo Nghị quyết số 66/2006/NQ-HĐND ngày 12-12-2006 của HĐND TP.HCM.

Theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11-7-2005 của Chính phủ có xác định, đường phố được đặt tên trên cơ sở lựa chọn trong các tên: tên địa danh nổi tiếng; danh từ có ý nghĩa tiêu biểu; tên di tích lịch sử - văn hóa có giá trị tiêu biểu; tên phong trào cách mạng, sự kiện lịch sử, chiến thắng chống xâm lược có giá trị tiêu biểu; tên danh nhân, bao gồm cả danh nhân nước ngoài.

Vì vậy, mỗi tên đường tại TP.HCM không chỉ là hệ thống định danh không gian, gắn với các tuyến giao thông…, mà nó còn góp phần xây dựng bản sắc văn hóa đô thị - bởi mỗi tên đường thường mang theo câu chuyện lịch sử, nhân vật, địa danh gắn với vùng đất đó.

Theo thống kê chưa đầy đủ, trước ngày 1-7-2025, tại TP.HCM có hơn 1.000 con đường được có tên, thành phố hiện sở hữu “ngân hàng tên” với 1.375 tên, trong đó 620 tên đã được sử dụng.

Trước đó, UBND TP.HCM ra Quyết định số 06/2014/QĐ-UBND ngày 22-1-2014 về bổ sung 1.070 tên đường vào Quỹ tên đường tại thành phố, trong đó có tên đường Thích Hành Tuệ - thuộc nhân vật lịch sử sau thế kỷ XX.

Thầy Thích Hành Tuệ tham gia các hoạt động yêu nước và bị bắt giam tù khổ sai tại Côn Đảo, bị tra tấn khốc liệt và hy sinh tại nơi ngục tù trần gian này vào ngày 28-4-1973. Mộ phần thầy hiện an trí tại khu C của Nghĩa trang Hàng Dương, đặc khu Côn Đảo.

Bên cạnh đó, Giác Ngộ xin giới thiệu với bạn đọc một số tên đường tại TP.HCM đặt theo tôn hiệu chư tôn đức tiêu biểu, có nhiều đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc.

Đường Khuông Việt

Đường Khuông Việt nằm trên địa bàn các phường Phú Trung, Hòa Thạnh (Q.Tân Phú cũ) - nay là P.Tân Phú (TP.HCM), từ đường Âu Cơ đến đường Hòa Bình, dài khoảng 1.827m, lộ giới 24m, qua các ngã ba Huỳnh Văn Chính, Hoàng Xuân Nhị.

Đường này trước đây là con hẻm, từ sau 1975 đặt tên đường là Huỳnh Văn Chính, được nâng cấp cải tạo thành đường phố từ năm 1995. Ngày 14-7-1999, UBND TP.HCM đổi tên đường thành Khuông Việt.

Thiền sư Khuông Việt thế danh Ngô Chân Lưu (930-1011), quê ở Đại La, xuất gia thọ giới ở chùa Khai Quốc với Thiền sư Vân Phong, được truyền tâm ấn, nối dòng thiền Quang Bích đời thứ tư.

Thiền sư tinh thông tam giáo, giúp Đinh Tiên Hoàng về chính sách trị quốc an dân, được vua Đinh ban hiệu là Khuông Việt Đại sư, phong chức Tăng thống. Qua triều Tiền Lê, thiền sư tiếp tục giúp vua Lê Đại Hành, được vua giao cùng Thiền sư Pháp Thuận tiếp sứ thần nhà Tống là Lý Giác, cùng xướng họa thơ văn linh hoạt, được ngoại nhân kính phục.

Đường Sư Vạn Hạnh

Đường Sư Vạn Hạnh nằm trên địa bàn các phường An Đông, Vườn Lài, Hòa Hưng, từ đường An Dương Vương đến đường Tô Hiến Thành, dài khoảng 2.482m, lộ giới 20m, qua các ngã tư Hùng Vương, Nguyễn Chí Thanh, Hòa Hảo, Ngô Gia Tự, Vĩnh Viễn, Bà Hạt, Lý Thái Tổ, 3 Tháng 2, ngã ba Dương Quang Trung.

Đường này thời Pháp thuộc mang tên đường Lorgeril. Ngày 19-10-1955, chính quyền Sài Gòn đổi tên đường thành Sư Vạn Hạnh, nhưng bấy giờ chỉ đến đường 3 Tháng 2. Năm 1990, giải tỏa khu gia binh bên phải đường 3 Tháng 2, thuộc P.14, để lập khu dân cư, đường này nối dài với đường Tô Hiến Thành.

Thiền sư Sư Vạn Hạnh (938-1018) họ Nguyễn, quê châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là Bắc Ninh). Thiền sư nối truyền dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, thuộc thế hệ thứ 12. Ngài có tư chất đĩnh đạc thông minh xuất chúng, học thông Tam tạng Kinh-Luật-Luận, nghiên cứu tinh tường nghĩa thú của Bách luận, là căn bản của Phật giáo Đại thừa do Bồ-tát Long Thọ trước tác. Ngài cũng nghiên cứu làu thông tam giáo.

Ngài từng giúp Lê Đại Hành trong việc chống nhà Tống, giúp Lý Thái Tổ xây dựng đất nước thịnh trị. Chính Thiền sư Vạn Hạnh đã thuyết phục vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La (sau đổi là Thăng Long) với mục đích bảo vệ nền độc lập lâu dài cho dân tộc. Chính vì vậy, Thiền sư Vạn Hạnh được phong Quốc sư.

Đường Vạn Hạnh

Đường Vạn Hạnh nằm trên địa bàn P.Tân Thành (Q.Tân Phú cũ), từ đường Trương Vĩnh Ký đến Phan Chu Trinh, dài khoảng 162m, lộ giới 8m. Đường có từ năm 1967 khi thành lập khu dân cư Tân Phú và được đặt tên đường Vạn Hạnh theo pháp hiệu Thiền sư Vạn Hạnh.

Đường Huyền Quang

Đường Huyền Quang thuộc địa bàn P.Tân Định (Q.1 cũ, nay là P.Tân Định, TP.HCM), từ đường Nguyễn Phi Khanh đến đường Thạch Thị Thanh, dài khoảng 101m, lộ giới 6m.

Đường này thời Pháp thuộc mang tên đường Génibrel. Ngày 22-3-1955, chính quyền Sài Gòn đổi tên đường là Huyền Quang.

Thiền sư Huyền Quang (1254-1334), thế danh là Lý Đạo Tái, là người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh).

Đương thời, ngài học giỏi, đỗ cả thi hương, thi hội và thi đình. Đời vua Trần Thánh Tông, ngài trở thành đệ nhất giáp tiến sĩ (trạng nguyên) khoa thi năm 1272. Sau đó ngài làm việc trong Viện Nội hàn của triều đình, phụng mệnh tiếp đón các sứ Bắc triều. Với tài năng văn chương xuất chúng và tư duy ngôn ngữ nhạy bén, ngài đã khiến các sứ thần Trung Hoa phải nể phục mà tôn trọng đất Đại Việt.

Trong một lần ngài theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Thiền sư Pháp Loa thuyết pháp, ngài như tỉnh ngộ và muốn xuất gia tu hành. Đến năm Hưng Long thứ 13 (1305), ngài xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm thị giả Điều ngự, được mang pháp hiệu là Huyền Quang. Năm Hưng Long thứ 17 (1309), tuân theo di huấn của Điều ngự, Huyền Quang theo hầu Thiền sư Pháp Loa.

Đến năm Đại Khánh thứ 4 (1317), ngài được Nhị tổ Pháp Loa truyền y của Trúc Lâm Đại sĩ và tâm kệ. Sau khi Pháp Loa viên tịch (1330), ngài kế thừa và trở thành vị Tổ thứ 3 của Thiền phái Trúc Lâm. Thượng hoàng Trần Minh Tông sắc thụy là Trúc Lâm Thiền sư Đệ tam đại, đặc phong từ pháp Huyền Quang Tôn giả.

Bên cạnh nghiệp tu, Thiền sư Huyền Quang còn được xem là một thi gia lớn của thời Trần. Những trước tác của thiền sư để lại cho hậu thế đến hôm nay vẫn làm thổn thức bao tâm hồn thi ca đồng điệu.

Đường Trần Nhân Tôn

Đường Trần Nhân Tôn được đặt cho tuyến đường trên địa bàn P.An Đông và P.Vườn Lài, từ đường Trần Phú đến đường Ngô Gia Tự, dài khoảng 601m, lộ giới 20m, qua các ngã tư Hùng Vương, Vĩnh Viễn.

Đường này thời Pháp thuộc mang tên đường Hỏa Lò. Ngày 4-5-1954, chính quyền Bảo Đại đổi tên đường Nguyễn Trãi. Ngày 6-10-1955, chính quyền Sài Gòn đổi tên đường là Trần Nhân Tôn.

Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308) tên húy là Khâm, con trưởng của vua Trần Thánh Tông và hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Ngài thấm nhuần tư tưởng Phật giáo từ rất sớm, đặc biệt từ người thầy trực tiếp là Tuệ Trung Thượng Sĩ.

Ngài là vị vua nhân từ, hòa nhã, biết cố kết lòng dân, biết thu dụng nhân tài để giữ nước. Nhờ vậy mà mấy lần quân Mông - Nguyên sang xâm chiếm nước ta, nhà vua đã lãnh đạo quân dân một lòng kháng chiến, thu được thắng lợi vô cùng vẻ vang, đánh dấu bằng chiến thắng Chương Dương Độ, Hàm Tử Quan, Bạch Đằng Giang và Hội nghị Diên Hồng.

Ngài lại gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành, mở rộng bờ cõi thêm vùng Thuận Hóa, Bắc Quảng Nam. Năm 1293, ngài nhường ngôi cho con, trở thành thái thượng hoàng.

Năm 1299, ngài xuất gia tại Yên Tử, lấy hiệu Hương Vân Đại Đầu-đà, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử với tư tưởng nhập thế “Cư trần lạc đạo”. Ngài thống nhất ba dòng thiền lớn và truyền bá Phật giáo khắp Đại Việt, xây dựng mối quan hệ hòa bình với các nước lân bang.

Ngài nhập diệt vào ngày 1-11-Mậu Thân (1308), tại am Ngọa Vân - Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh); trụ thế 51 năm. Xá-lợi của Ngài tôn thờ ở lăng Quý Đức phủ Long Hưng (Hưng Yên) và chùa Vân Yên - Yên Tử (Quảng Ninh), lấy hiệu là Huệ Quang kim tháp. Ngài được hậu thế dâng thánh hiệu là Đại Thánh Trần triều Trúc Lâm Đầu-đà Tịnh Tuệ Giác hoàng Điều ngự Phật Tổ.

Đường Thích Quảng Đức

Đường Thích Quảng Đức nằm trên địa bàn P.Đức Nhuận, TP.HCM (trước đây là các phường 3, 4, 5 thuộc Q.Phú Nhuận cũ), từ đường Phan Đăng Lưu đến đường Nguyễn Kiệm, dài khoảng 860m, lộ giới 20m, qua các ngã ba Nguyễn Đình Chiểu, Phùng Văn Cung.

Đường này thời Pháp thuộc mang tên đường làng số 19. Ngày 8-2-1955, chính quyền tỉnh Gia Định đặt tên đường Nguyễn Huệ. Ngày 14-8-1975, Ủy ban Quân quản thành phố đổi tên đường thành Thích Quảng Đức.

Bồ-tát Thích Quảng Đức thế danh là Lâm Văn Tuất sau đổi là Nguyễn Văn Khiết (1897-1963) nguyên quán tỉnh Khánh Hòa. Ngài xuất gia từ lúc 7 tuổi, năm 15 tuổi thọ giới Sa-di, năm 20 tuổi thọ giới Tỳ-kheo.

Ngài tham gia phong trào Chấn hưng Phật giáo ở miền Nam, từng đi khắp nhiều chùa ở Sài Gòn, Gia Định, Bà Rịa, Định Tường, Hà Tiên, sang cả Campuchia hoằng dương Chánh pháp, sau về trụ trì chùa Quán Thế Âm ở đường này.

Năm 1963, trong phong trào đấu tranh của Phật giáo chống chính quyền Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, Ngài phát nguyện tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là Nguyễn Đình Chiểu và Cách Mạng Tháng Tám) cầu nguyện cho cuộc đấu tranh thành công.

Sự kiện vị pháp thiêu thân của Ngài đã làm chấn động dư luận khắp năm châu, gây xúc động mạnh trong mọi giới, là một gương sáng cho toàn thể Phật giáo đồ trên khắp thế giới về tinh thần vô úy và tranh đấu bất bạo động nhằm bảo vệ Chánh pháp, hòa bình và độc lập.

Đường Thích Bửu Đăng

Đường Thích Bửu Đăng nằm trên địa bàn P.1 (Q.Gò Vấp cũ), nay là P.Hạnh Thông (TP.HCM), từ đường Lê Quang Định đến đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, dài khoảng 1.000m, lộ giới 12m.

Đường này nguyên là con hẻm số 561 của đường Lê Quang Định, được nâng cấp cải tạo thành đường phố từ năm 1995. Ngày 13-7-1999, UBND TP.HCM đặt tên đường Thích Bửu Đăng.

Hòa thượng Thích Bửu Đăng (1904-1948) thế danh Trần Ngọc Lang, quê tại xã Bình Mỹ, Q.Gò Vấp, tỉnh Gia Định (nay là xã Bình Mỹ, TP.HCM). Ngài sáng lập chùa Linh Sơn Hải Hội (P.An Hội Tây, TP.HCM) và tại đây tham gia Mặt trận Việt Minh của tỉnh Gia Định từ năm 1941.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ngài giữ chức Ủy viên Mặt trận Việt Minh, Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Gia Định. Khi quân Pháp tái chiếm Sài Gòn rồi Nam Bộ, kháng chiến bùng nổ, ngài thoát ly ra Chiến khu An Phú Đông.

Năm 1948, trên đường từ chùa Vạn Đức trở về chùa Linh Sơn Hải Hội, do có sự chỉ điểm của mật thám, Hòa thượng Thích Bửu Đăng bị Pháp phục kích bắt giữ. Ngày 2-9-Mậu Tý, sau 3 ngày bị tra khảo, ngài vẫn nhất quyết không cung khai bất cứ tin tức gì. Giặc Pháp đem ngài ra địa điểm cầu Tham Lương xử tử.

Mặt trận Việt Minh và Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Gia Định đã làm lễ truy điệu ngài trọng thể và dựng tháp tưởng niệm trong khuôn viên chùa Linh Sơn Hải Hội không lâu sau đó.

Với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, Hòa thượng Thích Bửu Đăng đã được Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam truy tặng Bằng Tổ quốc ghi công và Huân chương Độc lập hạng nhì.

Đường Thích Minh Nguyệt

Đường Thích Minh Nguyệt nằm trên địa bàn P.Tân Sơn Hòa, TP.HCM (P.2, Q.Tân Bình cũ) từ nhà số 7 đường Phổ Quang lại vòng ra số nhà 32AK/30B đường Phổ Quang, dài khoảng 330m, lộ giới 16m.

Đường này nguyên là con hẻm số 7 đường Phổ Quang có từ năm 1985, được nâng cấp cải tạo thành đường phố từ năm 1995. Ngày 13-7-1999, UBND TP.HCM đặt tên đường Thích Minh Nguyệt.

Hòa thượng Thích Minh Nguyệt (1907-1985) là vị giáo phẩm cấp cao của GHPGVN, tích cực hoạt động cho hòa bình, dân chủ, đóng góp nhiều cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng Tổ quốc.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ngài từng giữ chức vụ Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ, Ủy viên Mặt trận Việt Minh Sài Gòn - Chợ Lớn và Nam Bộ, Chủ nhiệm Nguyệt san Tinh Tấn là cơ quan ngôn luận của Hội Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ được thành lập trong Chiến khu Đồng Tháp Mười. Năm 1960, ngài bị bắt đày Côn Đảo, đến năm 1970 mới được trao trả. Sau năm 1975, ngài là Chủ tịch Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước TP.HCM.

Ngài còn được cử đảm trách vai trò Chủ nhiệm Báo Giác Ngộ, cơ quan báo chí Phật giáo đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất từ khi thành lập vào tháng cuối năm 1975. Năm 1981, tại Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức ở Hà Nội, thành lập GHPGVN, ngài được suy tôn vào ngôi vị Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh.

Đường Sư Thiện Chiếu

Đường Sư Thiện Chiếu nằm trên địa bàn P.Xuân Hòa, TP.HCM (P.6, Q.3 cũ), từ đường Bà Huyện Thanh Quan đến đường Nguyễn Thông, bên hông chùa Xá Lợi, dài khoảng 176m, lộ giới 10m.

Đường này thời Pháp thuộc chỉ là con hẻm của đường Nguyễn Thông nên gọi là Ruelle Des Eparges. Ngày 23-11-1952, chính quyền Bảo Đại đổi tên đường Lê Văn Thạnh. Ngày 4-4-1985, UBND TP.HCM đổi tên đường Sư Thiện Chiếu.

Sư Thiện Chiếu thế danh là Nguyễn Văn Tài (1898-1974) nguyên quán tỉnh Tiền Giang (nay là tỉnh Đồng Tháp). Ngài thường lui tới chùa Pháp Hoa ở Phú Nhuận, đàm đạo với Hòa thượng Thích Đạo Thanh về con đường cứu nước an dân. Năm 1940, ngài tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ. Năm 1942, ngài bị bắt tại Rạch Giá với Hòa thượng Thích Trí Thiền rồi đày Côn Đảo.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ngài về đất liền tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau năm 1954, ngài tập kết ra Bắc, rồi qua Trung Quốc làm chuyên gia nghiên cứu văn hóa. Năm 1961, Hòa thượng về nước, tiếp tục làm việc ở Ban Tôn giáo Trung ương cho đến lúc nghỉ hưu (1965) rồi viên tịch tại Hà Nội (1974).

Đường Ni Sư Huỳnh Liên

Đường Ni Sư Huỳnh Liên nằm trên địa bàn P.10 (Q.Tân Bình cũ) - nay là P.Bảy Hiền (TP.HCM), từ đường Phú Trung đến tịnh xá Ngọc Phú, dài khoảng 600m, lộ giới I 4m.

Đường này nguyên là con hẻm quen gọi đường tịnh xá Ngọc Phú, được nâng cấp cải tạo thành đường phố từ năm 1995. Ngày 13-7-1999, UBND TP.HCM đặt tên đường Ni Sư Huỳnh Liên.

Ni trưởng Huỳnh Liên thế danh là Nguyễn Thị Trừ (1923-1987) xuất gia với Tổ sư Minh Đăng Quang, là vị lãnh đạo của Ni giới Khất sĩ, nguyên quán tỉnh Tiền Giang (nay là tỉnh Đồng Tháp). Năm 1957, Ni trưởng thành lập tịnh xá Ngọc Phương ở đường Lê Quang Định (Q.Gò Vấp cũ), chuyên tâm tu hành, hoằng pháp và công tác xã hội.

Trong phong trào đấu tranh của Phật giáo chống chính quyền Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, Ni trưởng cùng chư Ni tham gia biểu tình, đưa nguyện vọng lên chính quyền Việt Nam Cộng hòa và tuyệt thực chống các cuộc đàn áp. Trong phong trào chống Mỹ cứu nước, Ni trưởng đứng vào hàng ngũ dân chúng biểu tình đòi chấm dứt chiến tranh, đòi dân sinh, dân chủ, ủng hộ hòa bình.

Cùng với Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quảng - Đức Pháp chủ GHPGVN, Ni trưởng Huỳnh Liên, Đệ nhất Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ được tôn vinh là một trong 60 gương điển hình tiêu biểu trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển TP.HCM nhân dịp Kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước (1975-2025).

Đường Phổ Quang

Đường Phổ Quang nằm trên địa bàn P.Tân Sơn Hòa và P.Đức Nhuận, từ đường Phan Đình Giót đến đường Đào Duy Anh, dài khoảng 1.100m, lộ giới 12m.

Trong kháng chiến chống Mỹ, đường này thuộc khu quân sự. Năm 1985 mở cho dân chúng sử dụng, nhân đường đi vào chùa Phổ Quang, nên đặt tên đường Phổ Quang.

Chùa Phổ Quang do cố Hòa thượng Thích Viết Tạo khai sơn năm 1951. Đến năm 1954, Hòa thượng về Bắc, Hòa thượng Thích Trí Dũng trụ trì và quản lý. Đến năm 1958, Hòa thượng Thích Trí Dũng bắt đầu tái thiết toàn diện chùa Phổ Quang cho đến năm 1963 thì hoàn thành. Năm 1975, Hòa thượng Thích Trí Dũng về trụ trì chùa Nam Thiên Nhất Trụ - Thủ Đức, chùa Phổ Quang được Bộ Tư lệnh Quân khu 7 tạm thời quản lý.

Năm 1998, UBND TP.HCM chính thức giao lại chùa Phổ Quang cho Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM quản lý. Cùng với Việt Nam Quốc Tự (P.Hòa Hưng) và chùa Thanh Tâm (xã Bình Lợi), chùa Phổ Quang là những giáo sản chung của GHPGVN TP.HCM, do Ban Trị sự Phật giáo TP.HCM trực tiếp quản lý theo một quy chế đặc biệt được khắc tại các văn bia do Đức Đệ tứ Pháp chủ GHPGVN - Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quảng chủ trương dựng tại các ngôi già-lam này.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Bộ lịch 2026 - Bính Ngọ do Báo Giác Ngộ phát hành

Báo Giác Ngộ phát hành bộ lịch 2026 - Bính Ngọ

GNO - Đón năm mới, Báo Giác Ngộ phát hành bộ lịch 2026 - Bính Ngọ, với những hình ảnh hoa sen đẹp và tinh khiết, cùng các câu pháp ngữ khai thị về lối sống đạo hạnh, an lành và thiết thực hiện tại.
Chùa Quang Minh, P.Thủy Xuân, TP.Huế chuẩn bị hàng chục ngàn suất cơm chay cứu trợ bà con

Chùa Quang Minh phối hợp với các chùa tại Huế tổ chức trao gần 10.000 suất cơm tới người dân vùng ngập lụt

GNO - Trận mưa lũ kéo dài trong những ngày qua đã gây ảnh hưởng nặng nề lên TP.Huế, khiến nhiều khu vực bị ngập sâu, cô lập và mất điện trên diện rộng, với tinh thần tương thân tương ái, chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử chùa Quang Minh tổ chức nấu và trao suất ăn hỗ trợ bà con.

Thông tin hàng ngày