Các dạng tháp trong lịch sử Phật giáo

Tháp hình chuông Borobudur, Indonesia
Tháp hình chuông Borobudur, Indonesia
NSGN - Tháp, Phạn: Stupa , Pāli: Thupa , Hán âm: Tốt-đổ-bà, Tốt-đổ-ba, Tốt-đô-bà, Tẩu-đẩu-bà, Tô-du-bà, Tổ-đổ-ba, Tư-thâu-pha, Suất-đổ-bà, Tụy-đồ-ba, Tụy-đồ-bà.

Gọi tắt: Tháp-bà, Thâu-bà, Đâu-bà, Du-bà, Suất-bà, Phật-đồ, Phù-đồ, Phật tháp, Bảo tháp/Tháp báu, Thất bảo tháp, tháp chùa; Hán dịch: Cao hiển xứ, Công đức tụ, Phương phần, Viên trủng, Đại trủng, Trủng phần lăng, Tháp miếu (Tòa tháp miếu. Tháp là tiếng âm theo Phạn, Miếu là tiếng dịch nghĩa. Hai tiếng Phạn và Hán đồng nghĩa vậy), Miếu, Quy tông, Đại tụ, Tụ tướng, Linh miếu. Tháp trong tiếng Hoa: Shuaidupo, Ta; Nhật Bản: Sotoba, To; Tây Tạng: Mchod-rten, Chorten1.

Tháp (Phạn: Stupa, “đống, chất đống, chất chồng lên nhau”) giống như một gò/ụ đất hay cấu trúc chứa đựng thánh tích/di vật hình bán cầu được sử dụng như một nơi để thiền định2.

Tháp vốn chỉ cho vật để an trí xá-lợi Phật, là vật kiến trúc được xây bằng gạch, nhưng đến đời sau thì tháp thường được dùng lẫn lộn với “Chi-đề”3. Chi-đề, Phạn: Caitya, chaitya, Pāli: Cetiya, còn gọi: Chi-đế, Chi-đà, Chi-trưng, Chi-để, Chế-đa, Chế-để, Chế-để-da; Hán dịch: Tụ tướng4.Chi-đề chỉ chung cho nơi Phật đản sinh, nơi Phật thành đạo, nơi Phật chuyển pháp luân, nơi Phật nhập Niết-bàn, nơi kinh hành của Phật quá khứ, thánh địa về bản sinh đàm của Đức Phật, hang Bích chi Phật, cho đến các vật kiến trúc an trí tượng chư Phật, Bồ-tát, dấu chân Phật, di cốt các vị Tổ sư, cao tăng được xây dựng bằng đất, đá, gạch, gỗ để cúng dường lễ bái.

Tháp Ahin Posh được xây dựng vào thế kỷ thứ II CN dưới thời Kushan và chưa đựng tiền xu của Kaniska I

Tháp Ahin Posh được xây dựng vào thế kỷ thứ II CN dưới thời Kushan và chưa đựng tiền xu của Kaniska I

Nhưng theo luật Ma-ha-tăng-kỳ 33, Pháp hoa nghĩa sớ 11, thì tháp và chi-đề khác nhau ở chỗ có xá-lợi Phật và không có xá-lợi Phật, hễ có xá-lợi Phật thì gọi là tháp, không xá lợi Phật thì gọi là chi-đề5. Còn Địa trì kinh luận chủ trương bất luận tháp có thờ hay không thờ xá-lợi đều gọi là chi-đề cả. Ngoài ra, theo kinh A-dục vương 7, nơi Phật giáng sinh, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết-bàn gọi là 4 chi-trưng. Chi-đề mà người đời hiểu rộng ra là 4 đại linh tháp cũng là lối dùng lẫn lộn. Còn có thuyết khác cho rằng gọi chung là tháp, gọi riêng là chi-đề. Hiện nay ở Ấn Độ rất nhiều hang đá được gọi là chi-đề, trong đó các hang Thất-diệp (Phạn: Saptaparnaguha), Sư-đạt-mã (Sudama), Lạc-mã-tư-lỵ-tích (Lomas Rishi) được xem là Chi-đề nguyên thủy; hang Bạc-gia (Bhaja) và Bối-đạt-sa (Bedsa) được coi là chi-đề hoàn chỉnh nhất6.

Về sau, tháp được hiểu là công trình kiến trúc Phật giáo thường được xây trong khuôn viên các thánh tích, chùa chiền, hình dáng về cơ bản là cao, nhỏ dần về đỉnh. Trong lịch sử kiến trúc Phật giáo, thì tháp chính là ngôi chùa, và các ngôi chùa ban đầu thì kiến trúc tháp là trọng tâm. Kiến trúc nguyên thủy đó gọi là tháp (stupa), từ tháp đơn đến quần thể tháp, các nhà sư đến đây hành lễ, tưởng niệm về Đức Phật. Ở Đông Á, kiến trúc tháp đã phát triển thành một dạng thức kiến trúc hoàn toàn mới, mang đặc trưng kiến trúc Trung Hoa, là công trình có nhiều tầng và diềm mái đưa ra ở các mặt.

Hiểu theo nghĩa rộng thì tháp không chỉ để thờ xá-lợi của chư Phật hoặc của các bậc giác ngộ như Bồ-tát, Duyên giác, A-la-hán; hoặc để táng di cốt của các bậc tôn túc từng hành đạo trong các ngôi chùa.Có cảnh tháp cất riêng một mình. Song, phần nhiều cất trong vòng rào của nhà chùa7. Tháp của mỗi vị có tên riêng, một vị có thể có nhiều tháp ở nhiều chùa, ví dụ như tháp thờ Hòa thượng Chuyết Công ở chùa Bút Tháp và chùa Phật Tích có tên là tháp Báo Nghiêm; tháp thờ Hòa thượng Chân Nguyên có tên là tháp Tịnh Quang. Có hai tháp Tịnh Quang: Một ở chùa Quỳnh Lâm và một ở chùa Long Động (núi Yên Tử)8. Tháp cũng là nơi các đệ tử của Phật dựng kỷ niệm ở những địa điểm quan trọng trong cuộc đời Đức Phật như: Tứ Động tâm nơi mà Phật đản sinh, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn.

Về sau tháp có thể an trí cả kinh điển bên trong hoặc là đối tượng để thờ cúng, thiền định; các bảo tháp loại này thường bằng đồng, gỗ, vàng, bạc, ngọc... nhằm biểu thị giáo lý của Phật giáo9.

Ngoài ra, bảo tháp là từ trang trọng để gọi tháp Phật, hoặc chỉ cho tháp có dùng trân bảo để trang sức. Theo phẩm Kiến bảo tháp trong kinh Pháp hoa, có tháp 7 báu từ đất vọt lên trước mặt Phật Thích Ca rồi trụ trên không trung, có 5.000 lan can, ngàn muôn khám thờ trang sức bằng vô số tràng phan và treo nhiều châu anh lạc thòng xuống, nhiều chuông, các phan lọng đều do 7 báu: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, mai khôi hợp thành. Bốn mặt tháp bay ra nhiều mùi thơm của Chiên-đàn Ma-la-bạt10.

Sự phát triển và biến đổi của ngôi tháp

Một số tác giả cho rằng các ngôi tháp có nguồn gốc từ một truyền thống văn hóa rộng lớn hơn từ Địa Trung Hải đến thung lũng Indus, và có thể liên quan đến các gò hình nón trên các đế/bệ hình tròn từ thế kỷ VIII TCN có thể tìm thấy ở Phrygia (lăng mộ của vua Midas, thế kỷ VIII TCN), Lydia (chẳng hạn như lăng mộ của Alyattes, thế kỷ VI TCN), hoặc ở Phoenicia (lăng mộ của Amrit, thế kỷ V TCN)11.

Ngôi tháp buổi đầu là những gò ụ chứa thánh tích của Đức Phật (thế kỷ V)

Các công trình tôn giáo dưới dạng tháp Phật giáo là một đài tưởng niệm dạng vòm, bắt đầu được sử dụng ở Ấn Độ như những công trình tưởng niệm gắn với việc lưu giữ xá-lợi của Đức Phật. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, hài cốt của Ngài được hỏa táng và tro được phân chia và chôn cất dưới tám gò ụ với hai gò ụ thêm vào bao bọc lấy chiếc bình đựng di cốt/tro hỏa táng và than hồng12. Xá-lợi của Đức Phật được tôn trí trong tám bảo tháp, ở thành Vương-xá(Rajagriha), Tỳ-xá-ly (Vaishali), Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu), Allakappa, Ramagrama, Pava, Câu-thi-na (Kushinagar) và Vethapida. Tháp Piprahwa dường như cũng là một trong những ngôi tháp đầu tiên được xây dựng13.

Các rào bảo vệ - bao gồm các trụ, thanh ngang và mái tường/đầu tường - đã trở thành một đặc điểm cho sự an toàn xung quanh một ngôi tháp. Đức Phật đã để lại lời chỉ dẫn về cách bày tỏ lòng tôn kính đối với các ngôi tháp: “Và bất cứ người nào đặt những vòng hoa hay đặt hương thơm và màu sắc ở đây với tấm lòng thành kính, sẽ gặt hái được lợi ích lâu dài”. Cách thực hành này dẫn đến việc các tháp được trang trí với các tác phẩm điêu khắc trên đá thể hiện những vòng hoa trong thời kỳ cổ đại14.

Tháp Piprahwa, Uttar Pradesh, Ấn Độ - một ngôi tháp lâu đời nhất còn tồn tại

Tháp Piprahwa, Uttar Pradesh, Ấn Độ - một ngôi tháp lâu đời nhất còn tồn tại

Tháp dưới triều đại vua Ashoka (250 TCN)

Theo truyền thống Phật giáo, hoàng đế Ashoka (trị vì 273 - 232 TCN) đã thu hồi xá-lợi của Đức Phật từ các ngôi tháp trước đó (ngoại trừ tháp Ramagrama) và dựng 84.000 tháp để phân bố xá-lợi trên khắp Ấn Độ. Trên thực tế, nhiều tháp được cho là có niên đại ban đầu từ thời vua Ashoka, chẳng hạn như Sanchi hoặc Kesariya, ở nơi đây nhà vua cũng dựng lên những cây cột với các câu viết khắc chữ của ông, và đó là ngôi tháp Bharhut, Amaravati hoặc Dharmarajika ở Gandhara15. Hoàng đế Ashoka cũng thiết lập các trụ cột của ông trên khắp vương quốc, nói chung là bên cạnh các ngôi tháp Phật giáo.

Sự xuất hiện đầu tiên được biết đến của từ “tháp/stupa” là bởi nhà vua Ashoka từ một sự chạm khắc tưởng nhớ bên trên trụ đá Nigali Sagar16.

Tháp Sanchi, Madhya Pradesh, Ấn Độ với các torana trang trí được xây dựng từ thế kỷ I TCN đến thế kỷ I CN

Tháp Sanchi, Madhya Pradesh, Ấn Độ với các torana trang trí được xây dựng từ thế kỷ I TCN đến thế kỷ I CN

Các ngôi tháp trang trí (từ 125 TCN)

Các ngôi tháp nhanh chóng được trang trí lộng lẫy với các bức phù điêu chạm khắc, sau những nỗ lực đầu tiên tại tháp Sanchi số 2 (125 TCN). Đầy những phù điêu chạm khắc trang trí hoàn chỉnh và các cảnh về cuộc đời của Đức Phật sớm xuất hiện tại Bharhut (115 TCN), Bodh Gaya (60 TCN), Mathura (125-60 TCN), một lần nữa tại Sanchi để nâng cao các cổng torana (thế kỷ I TCN/CN) và sau đó là Amaravati (thế kỷ I - II CN)17. Việc thêm thắt trang trí các ngôi tháp cũng có một bước phát triển đáng kể ở phía Tây Bắc trong khu vực Gandhara, với ngôi tháp được trang trí như tháp Butkara (“ghi nhớ/tưởng niệm” với các yếu tố trang trí Hy Lạp hóa từ thế kỷ II TCN)18 hoặc tháp Loriyan Tangai (thế kỷ II SCN).

Sự phát triển ngôi tháp ở Gandhara (thế kỷ III TCN - thế kỷ V CN)

Ngôi tháp đã trải qua nhiều đợt phát triển lớn trong khu vực Gandhara. Kể từ khi Phật giáo lan truyền đến Trung Á, Trung Quốc và cuối cùng là Hàn Quốc và Nhật Bản thông qua Gandhara, sự phát triển phong cách mỹ thuật của ngôi tháp Gandhara đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển sau này của tháp (và các hình thức kiến ​​trúc hoặc mỹ thuật liên quan) ở những khu vực này19. Ngôi tháp Gandhara theo sau một số bước, nói chung ngày càng nâng cao và bổ sung các yếu tố trang trí, cuối cùng dẫn đến sự phát triển của chùa tháp20. Các loại tháp chính theo thứ tự thời gian như sau:

1- Tháp Dharmarajika với một thiết kế lân cận Ấn Độ là một ngôi tháp bán cầu gần như trực tiếp trên mặt đất, có lẽ niên đại là khoảng thế kỷ III TCN. Các ngôi tháp tương tự là tháp Butkara, tháp Manikyala hoặc tháp Chakpat21.

2- Tháp Saidu Sharif, cột và tiền khai ngũ điểm/quincuncial (còn gọi là tiền khai năm điểm hoặc tiền khai nanh sấu: Trong 5 cánh của bao hoa có 2 cánh nằm bên ngoài hai cánh bên cạnh, 2 cánh nằm bên trong hai cánh bên cạnh, cánh thứ năm nằm bên ngoài một bên và bên trong bên còn lại), với một dãy cầu thang để nâng một mái vòm lên cao trên bục nền vuông. Nhiều chi tiết nhỏ của Gandhara đại diện cho loại hình đẹp mắt này (thế kỷ I CN)22.

3- Tháp Loriyan Tangai, với hình dạng thuôn dài và nhiều phù điêu kể chuyện trong nhiều con đường ngôi tháp Gandhara cổ điển này (thế kỷ II CN)23.

4- Tháp gần kim tự tháp Jaulian (thế kỷ II CN)24.

5- Loại tháp có hình dạng như chữ thập, là ở tháp Bhamala, với các dãy cầu thang ở bốn hướng (thế kỷ IV CN)25.

6- Thiết kế cao chót vót của tháp Kanishka thứ hai (thế kỷ IV - V CN)26.

Những ngôi tháp bậc thang

Người ta cho rằng ngôi đền thờ có hình dạng của một kim tự tháp cụt có thể bắt nguồn từ thiết kế của các ngôi tháp bậc thang được phát triển ở Gandhara. Tháp Mahabodhi ở Bodh Gaya là một ví dụ như vậy, hình thành bởi một chuỗi các bậc/nấc thang với những hốc tường chứa đựng các hình tượng Đức Phật, xen kẽ với cột trụ Greco-Roman/Hy Lạp-La Mã. Cấu trúc của tháp mang hình dạng bán cầu với những hình chạm đầu mái ở trên đỉnh, tạo thành một sự kéo dài hợp lý của các tháp Gandhara theo từng bậc/nấc thang như những ngôi tháp được thấy ở Jaulian.

Mặc dù cấu trúc hiện tại của tháp Mahabdhodi có niên đại từ thời kỳ Gupta (thế kỷ V CN), “Tấm/bản của ngôi chùa Mahabhodi”, được phát hiện ở Kumrahar và có niên đại 150 - 200 CN dựa trên các bản chữ khắc bằng chữ Kharoshthi và kết hợp sự tìm kiếm về các đồng tiền Huvishka, gợi ý rằng cấu trúc kim tự tháp đã tồn tại vào thế kỷ II CN. Điều này được xác nhận bởi các cuộc khai quật khảo cổ học ở Bodh Gaya.

Thiết kế kim tự tháp cụt này cũng đánh dấu sự phát triển từ ngôi tháp phi ảnh tượng dành riêng cho hệ thống thờ cúng tôn giáo/tín ngưỡng của di vật/thánh tích, đến hình tượng ngôi chùa với nhiều những hình ảnh của chư Phật và Bồ-tát27. Thiết kế này rất có ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngôi đền Hindu sau này28.

Sự phát triển của ngôi tháp ở châu Á

Kiến trúc ngôi tháp đã được chấp nhận ở Đông Nam và Đông Á, nơi ngôi tháp trở nên nổi bật như một di tích Phật giáo được sử dụng để lưu giữ các thánh tích/di vật thiêng liêng. Các cổng torana của Ấn Độ đã đến Đông Á cùng với sự truyền bá của Phật giáo29. Một số học giả cho rằng cổng điểu cư/torii có nguồn gốc từ các cổng torana tại di tích lịch sử Phật giáo ở Sanchi (thế kỷ III TCN - thế kỷ XI CN)30. Ở Tây Tạng, tháp trở thành chorten, và ngôi chùa ở Đông Á. Ngôi chùa có nhiều hình thức đa dạng, bao gồm cả kiểu hình chuông và hình chóp kim tự tháp. Trong bối cảnh phương Tây, không có sự phân biệt rõ ràng giữa một ngôi tháp và một ngôi chùa. Tuy nhiên, nói chung, “tháp/stupa” là thuật ngữ được sử dụng cho một công trình kiến ​​trúc Phật giáo ở Ấn Độ hoặc Đông Nam Á trong khi “ngôi chùa” dùng để chỉ một tòa nhà ở Đông Á có thể đi vào và có thể được sử dụng cho mục đích thế tục. Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ khác nhau tùy theo từng khu vực. Ví dụ, các ngôi tháp ở Miến Điện thường được đề cập như là “những ngôi chùa”.

Tháp được xây dựng ở Sri Lanka ngay sau khi Devanampiya Tissa của Anuradhapura cải đạo sang Phật giáo. Ngôi tháp đầu tiên được xây dựng là Thuparamaya. Sau đó, nhiều công trình khác đã được xây dựng trong nhiều năm như Jetavanaramaya ở Anuradhapura, là một trong những công trình kiến ​​trúc cổ cao nhất thế giới.

Sự phát triển của ngôi tháp

Các từ ngữ ở châu Á để chỉ cho ngôi tháp (ta trong tiếng Trung Quốc, t’ap trong tiếng Hàn Quốc, tháp trong tiếng Việt, to trong tiếng Nhật Bản) đều được cho là bắt nguồn từ ngôn ngữ Pāli để chỉ cho tháp, thupa, phát âm tiếng Phạn là stupa31. Đặc biệt là kiểu ngôi tháp dạng tháp, giai đoạn phát triển cuối cùng của tháp Gandhara, có thể nhìn thấy ở tháp Kanishka thứ hai (thế kỷ IV), được cho là tiền thân của các dạng tháp ở Turkestan và các ngôi chùa Trung Hoa như ngôi chùa Songyue (523 CN)32.

Như chúng ta đã biết, trong việc hành lễ Phật giáo buổi đầu ở Ấn Độ, những ngôi tháp lớn bằng đá đựng thánh tích Phật giáo là những đối tượng thờ phượng quan trọng nhất. Tín đồ đi theo chiều kim đồng hồ quanh những ngôi tháp đó như là một hành vi sùng mộ. Phiên bản danh tiếng nhất là ngôi tháp ở Sanchi, một gò lớn vây quanh bởi những cổng đá chạm khắc và trên cùng là ba hình cây dù nhỏ. Những ngôi tháp tương tự cũng hiện diện trong các phù điêu bằng đá của Phật giáo Ấn Độ trong đó những người sùng mộ được mô tả đang quỳ lạy trước các ngôi tháp. Trong các nền văn hóa Theravada của Sri Lanka và Đông Nam Á, những công trình này nhằm dâng lên vị Phật lịch sử và lời dạy của Ngài, là những đối tượng kính ngưỡng đầu tiên33.

Kiến trúc ngôi tháp đã trải qua một quá trình biến đổi khá dài, xuất phát từ Gandhara (Tây Bắc Ấn Độ), tháp nền hình tròn bằng phẳng được thay thế bằng một nền hình ống, chia thành nhiều đoạn. Phần bán cầu được kéo dài ra, nhưng so với nền ống thì nhỏ hơn trước. Phần nằm trên bán cầu cũng được kéo dài, chia thành nhiều tầng, biến thành hình nón. Khoảng năm 150-400, phần gốc hình ống lại biến thành hình vuông và trở nên phổ biến tại vùng Nam Á. Trong đa số trường hợp, tháp giữ lại hình thức với một bệ vuông, phần giữa tròn và những tán dù ở trên đỉnh34.

Tuy nhiên, ở Thái Lan và Miến Điện, phần tròn của các bảo tháp được thu gọn thành những hình dáng thon thả hay tam giác, thường được dát vàng. Ở Trung Hoa, Hàn Quốc và sau đó Nhật Bản, tháp trải qua một cuộc hóa thân kỳ thú, ngôi tháp Phật giáo cũng biến đổi về dạng thức kiến trúc trở thành phong cách lầu các35. Những kiến trúc này cũng tàng trữ các thánh tích và có một trụ nối kết các thánh tích với đỉnh của kiến trúc. Những tán dù nhỏ vẫn còn ở trên đỉnh, nhưng trong nhiều trường hợp, phần tròn của hình thức nguyên thủy đã biến mất36.

Tháp Mahabodhi, Bodh Gaya, Ấn Độ trong dạng thức của một kim tự tháp nhiều bậc với tháp tròn trên đỉnh

Tháp Mahabodhi, Bodh Gaya, Ấn Độ trong dạng thức của một kim tự tháp nhiều bậc với tháp tròn trên đỉnh

Những ngôi tháp danh tiếng

Bằng chứng khảo cổ học sớm nhất về sự hiện diện của các ngôi tháp Phật giáo có niên đại vào cuối thế kỷ IV TCN.

Ở Ấn Độ, Sanchi, Sarnath, Amaravati và Bharhut là một trong những ngôi tháp lâu đời nhất được biết đến. Cao nhất là tháp Jetavanaramaya tọa lạc ở thành phố cổ xưa Anuradhapura, Sri Lanka với chiều cao 120m. Thung lũng Swat dẫn chứng một ngôi tháp được bảo tồn tốt ở Shingardar gần Ghalegay; một ngôi tháp khác nằm gần Barikot và Dharmarajika-Taxila ở Pakistan. Ở Sri Lanka, thành phố cổ Anuradhapura bao gồm một số ngôi tháp cao nhất, cổ xưa nhất và được bảo tồn tốt nhất trên thế giới, chẳng hạn như Ruwanwelisaya.

Ngôi tháp công phu nhất là công trình tưởng niệm Borobudur thế kỷ VIII ở Java, Indonesia. Sân thượng tròn ở phía trên cùng với hàng tháp hình chuông chứa đựng các hình tượng Đức Phật tượng trưng cho Arūpadhātu/Vô sắc giới, quả cầu không có hình dáng rõ rệt. Tháp chính trống rỗng, tượng trưng cho sự giác ngộ hoàn toàn viên mãn. Tháp chính là phần đỉnh chóp của di tích, trong khi phần đế bệ là một cấu trúc kim tự tháp trau chuốt với các hành lang/gian phòng được trang trí bởi những bức phù điêu thể hiện các cảnh có nguồn gốc từ những kinh văn Phật giáo và miêu tả cuộc đời của Đức Phật Gautama. Công trình kiến ​​trúc độc đáo và ý nghĩa của Borobudur đã được UNESCO công nhận là công trình tưởng niệm Phật giáo lớn nhất thế giới. Đây cũng là ngôi chùa Phật giáo lớn nhất thế giới. Cũng như một trong những di tích Phật giáo vĩ đại nhất trên thế giới.

Một ngôi tháp Kỳ-na giáo được khai quật tại Mathura vào thế kỷ XIX.

Shwedagon ở Yangon, Myanmar là một trong những ngôi tháp lớn nhất và thiêng liêng nhất.

Ở Trung Quốc, tháp Phật được xây dựng sớm nhất vào thời Tam Quốc: Vua nước Ngô là Tôn Quyền rất thán phục việc Khương Tăng Hội cảm được xá-lợi Phật, ông liền xây tháp cúng dường, đặt tên là Kiến Sơ tự, bấy giờ là năm 240. Nhưng theo Phật tổ thống ký 54 thì Bạch Mã tự tháp được xây dựng vào năm 67 đời Đông Hán là ngôi tháp đầu tiên của Trung Quốc…

Ở Nhật Bản vào năm 585 đời Mẫn Đạt Thiên hoàng, Đại thần Tô Ngã Mã Tử đã tạo một ngôi tháp ở phía Bắc Đại Dã Khâu. Trên đầu trụ của tháp an trí xá-lợi mà Tư Mã Đạt thỉnh được. Đây là sự mở đầu của việc kiến tạo tháp ở Nhật Bản37.

Tây Tạng vương thần ký của Đạt-lai Lạt-ma đời thứ 5 có ghi chép về Phật tháp đầu tiên của Tây Tạng như sau: “Xích Cát Thác Tôn lấy Như Ủng Tát - Đổng Kiệt Na Ma Thố, sinh ra con trai tên là Lạp Thác Thác Nhật Ninh Tán. Ninh Tán lại là hóa hiện của Cát Tường Phổ Hiền Quang Minh. Khi tại vị, một hôm, bỗng từ trên không trung trong vương thất rơi xuống cuốn Chư Bồ-tát danh xưng kinh, bảo tháp bằng vàng, bảo tráp kinh, sáu chữ đại minh chú không thể thiếu, ấn thức Chiên Đà-la-ma-ni, rơi xuống nóc lầu cung Ung Bố Lạp Cương”. Trong đó bảo tháp bằng vàng được gọi là tháp Thiên Giáng. Tòa Phật tháp này tương truyền được đặt bên trong tháp trắng của bốn tháp xanh, đen, trắng, đỏ bốn bên chùa Tang Da.

Liên quan đến Phật tháp thời kỳ đầu hiện còn ở Tây Tạng, có tháp trắng phía Tây động Pháp Vương cung Bố Đạt Lạp. Tương truyền tháp này được xây khi xây động Pháp Vương, tháp triều hướng chính diện động Pháp Vương, cao khoảng 2,45m, là vật báu trấn cung. Tháp trắng phía Đông động Pháp Vương là sau này phỏng theo tháp trắng phía Tây xây dựng, để mọi người lễ bái38.

Tháp trang trí Loriyan Tangai, Gandhara (thế kỷ thứ II CN)

Tháp trang trí Loriyan Tangai, Gandhara (thế kỷ thứ II CN)

Những ngôi tháp châu Âu

Tháp Benalmádena là ngôi tháp cao nhất ở châu Âu. Nó cao 33m và được khánh thành vào ngày 5-10-2003, là công trình cuối cùng của vị thầy Phật giáo Lopon Tsechu Rinpoche. Rinpoche đã xây dựng ngôi tháp đầu tiên tại Karma Guen gần Málaga vào năm 199439, là biểu tượng của hòa bình và thịnh vượng cho Tây Ban Nha40. Rinpoche tiếp tục xây thêm 16 ngôi tháp ở châu Âu trước khi qua đời vào năm 2003.

Một ngôi tháp được xây dựng trên nền đất của Trung tâm Kalachakra Kalapa ở Tây Nam Styria, Áo, từ năm 2000 đến năm 2002.

Một ngôi tháp dựa trên các tháp hình chuông ở Borobudur, Trung Java, nằm tại tu viện Phật giáo Amaravati gần Hemel Hempstead ở vương quốc Anh41.

Biểu trưng

Bảo tháp vốn là những nơi chứa thánh tích/di cốt của vị Phật lịch sử hoặc các vị Tổ sư có công đức lớn. Chúng phát sinh từ những gò mộ táng xa xưa của Ấn Độ, đánh dấu mộ phần của những vị lãnh đạo tôn giáo hay chính trị và nhắc nhở người sống về công đức của họ. Sau khi Phật Thích Ca viên tịch, kiểu gò mộ này được dung hợp vào Phật giáo như là nơi chứa thánh tích của Phật và chư Tôn giả, đồng thời được xem như những vật nhắc nhở về sự giác ngộ của Ngài và biểu tượng của nhục thân cũng như lời dạy của Ngài42. Bên cạnh đó, người ta cho rằng, khi Phật tịch diệt, Ngài đặt cái bát lên trên bộ y, trao lại cho đệ tử, nên gọi là trao y bát, tức là truyền thừa cho người kế tục. Cái bát úp trở thành hình thức mộ tháp ban đầu. Từ tháp Sanchi đến các tháp ở Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, và Borobudur ở Indonesia, tháp ở Trung Hoa và Nhật Bản, là một lịch sử kiến trúc và điêu khắc phong phú, biến đổi theo từng quan niệm của Phật giáo khi đi vào từng địa phương. Tháp trở thành một biểu tượng không chỉ của Phật giáo, mà còn là sức mạnh của nhà nước sùng kính Phật giáo đó, của sự hướng thượng, khẳng định vị thế Phật vương, và sự giác ngộ cái vô cùng là trời đất, vũ trụ, nên tháp cũng là một vũ trụ thu nhỏ, là núi Tu-di, nơi nương tựa của thế giới hay ngọn núi của thần thánh43.

Ngoài ra, vì bảo tháp trông giống ngọn đồi cũng khiến người ta liên tưởng nó biểu thị núi Tu-di, ngọn linh sơn ở trung tâm của vũ trụ Phật giáo. Một cột trụ đi xuyên qua trung tâm của cấu trúc, nối liền đỉnh bảo tháp với thánh tích bên dưới dùng làm trục vũ trụ (axis mundi/cosmi pillar) nối liền trời và đất.

Tín đồ Mật tông tin rằng bảo tháp cũng biểu thị vũ trụ. Nó được cấu tạo với năm hình thể kỷ hà biểu thị ngũ hành. Cái đế vuông vức biểu thị vật chất, trong khi vòng tròn bên trên biểu thị kiến thức. Tiếp đến, hình tam giác tượng trưng tinh thần, và nửa vòng tròn biểu thị Phật pháp. Đầu trên cùng của kiến trúc là một viên bảo châu rực lửa, tượng trưng nguyên lý tối thượng44.

Còn có dữ liệu cho rằng “Hình dạng của bảo tháp biểu trưng cho Đức Phật, đội mũ miện và ngồi trong tư thế thiền định trên ngai sư tử. Mũ miện của Ngài là đỉnh chóp nhọn của ngọn tháp; đầu của Ngài là hình vuông ở chân chóp; thân của Ngài là hình dạng chiếc bình; chân của Ngài là bốn bậc của nền đất thấp hơn; và chân nền là chiếc ngai vàng của Ngài”45.

Bảo tháp đựng thánh tích biểu trưng cho trí tuệ (pháp thân/dharmakaya) của Đức Phật và cất giữ di vật vật chất của Ngài, và là một trì vật cầm tay của một vài vị thần46. Một vài thần linh được miêu tả với bảo tháp nhỏ như là tùy khí. Phật Di Lặc, Phật của tương lai, thường mang một bảo tháp nhỏ trên đầu tóc, trong khi Đa Văn Thiên Vương/Vaishravana, vị Thiên Vương trấn giữ phương Bắc cầm một bảo tháp nơi tay trái47. Hay Quảng Mục Thiên Vương/Virupaksha - Vị Thiên Vương sắc đỏ ở phương Tây, vị La-hán A-thi-đa/A-thị-đa/Abheda… Tay giữ bảo tháp sắc trắng hoặc vàng kim, và thường được nâng đỡ trên đài bệ hoa sen. Biểu trưng bảo tháp hiện thân cho phức hợp ý nghĩa các loại hình tượng, với mỗi một cấu thành biểu thị một khía cạnh cụ thể của con đường đi tới giác ngộ48. Tháp Phật là tượng trưng của Phật giáo. Tháp Phật còn tượng trưng cho uy thế giáng trừ ma chướng của Phật-đà và pháp thân được thành tựu viên mãn. Hình tượng đó biểu thị dùng thần minh của Phật-đà để trấn áp mọi ma chướng xuống dưới thân. Có tháp Phật còn được trang trí cả cửa nhỏ, tượng trưng cho có một con đường viên mãn49. Đế bệ của bảo tháp tạo thành trong dạng thức ngai hoặc bệ nhiều tầng bậc vuông, được biết đến như là “ngai sư tử”. Đi lên phía trên là mái vòm có hình bán cầu của bảo tháp, một hốc vuông hay harmika, một tổng thể chóp nhọn hình nón bên trên lên đến 13 “ô bánh xe”, và một hình chạm đầu mái hoàn thiện với một ô hoa sen, mặt trăng lưỡi liềm, dĩa mặt trời và ngọn lửa hợp nhất50.

Các kiểu loại tháp

Nếu nói theo nghĩa rộng của tháp (bao hàm tháp-bà và chi-đề) thì tháp có các kiểu loại như:

Tháp Phật dù lớn hay nhỏ, hình dạng, chất liệu như thế nào, cách tạo hình của nó đều thống nhất, thể hiện rõ ý Phật tượng trưng cho tính hoàn mỹ và tính quan trọng51.

Được xây dựng vì nhiều lý do, các ngôi tháp Phật giáo được phân loại dựa trên dạng thức và chức năng có năm loại52:

- Tháp xá-lợi/di vật, trong đó xá-lợi hoặc di vật của Đức Phật, các môn đệ của Ngài và các vị Thánh tăng cư sĩ được tôn trí.

- Tháp vật thể, trong đó các vật phẩm được tôn trí là những đồ vật thuộc về Đức Phật hoặc các đệ tử của Ngài, chẳng hạn như một chiếc bát khất thực hoặc áo cà-sa, hay những bộ kinh quan trọng của Phật giáo.

- Tháp tưởng niệm, được xây dựng để tưởng nhớ các sự kiện trong cuộc đời của Đức Phật hoặc các đệ tử của Ngài.

- Tháp tượng trưng, để tượng trưng cho các khía cạnh của triết học Phật giáo; ví dụ, Borobudur được coi là biểu tượng của “Tam thế (dhatu) và các giai đoạn tâm linh (bhumi) ở nơi đặc tính của một vịBồ-tát Đại thừa”.53

- Tháp tri ân, được xây dựng để tưởng nhớ các chuyến viếng thăm hoặc để đạt được những lợi ích tâm linh, thường là tại địa điểm của các bảo tháp nổi bật - nơi chốn thường xuyên được viếng thăm.

Nếu phân biệt theo vật được chứa trong tháp thì có tháp xá-lợi, tháp tóc, tháp móng tay, tháp răng, tháp y, tháp bát, tháp chân thân, tháp khôi thân, tháp toái thân, tháp bình, tháp hải hội, tháp Tam giới vạn linh, tháp nhất tự nhất thạch, tháp nhận54.

Nếu phân biệt theo chất liệu kiến trúc thì có tháp gạch, tháp gỗ, tháp đá, tháp ngọc, tháp cát, tháp bùn, tháp đất, tháp phân, tháp sắt, tháp đồng, tháp vàng, tháp bạc, tháp thủy tinh, tháp pha-lê, tháp lưu ly, tháp báu, tháp hương…55. Ngoài ra, căn cứ theo địa vị cao thấp khác nhau của hoạt Phật, chất liệu sử dụng của linh tháp cũng khác nhau, như Đại Lại, Ban Thiền là linh tháp vàng, còn thủ tọa, người kế thừa của những giáo phái chỉ sử dụng tháp bạc. Linh tháp thường được đặt trong các điện thờ lớn nhỏ của chùa, điện đặt linh tháp được gọi là điện linh tháp56.

Nếu phân biệt theo tính chất ý nghĩa thì có tháp kỳ phước, tháp báo ân, tháp pháp thân, tháp thọ.

Nếu phân biệt theo kiểu dáng vị trí sắp xếp của tháp thì có tháp kiểu cô lập, tháp kiểu đối lập, tháp kiểu bài lập, tháp kiểu phương lập, tháp kiểu củng lập, tháp kiểu phân lập.

Còn nếu phân biệt theo kiểu dáng thì có tháp bát úp, tháp khám, tháp trụ, tháp nhạn, tháp lộ, tháp nhà, tháp không vách, tháp Lạt-ma, tháp 37 tầng, tháp 17 tầng, tháp 15 tầng, tháp 13 tầng, tháp 9 tầng, tháp 7 tầng, tháp 5 tầng, tháp 3 tầng, tháp vuông, tháp tròn, tháp hình lục giác, tháp hình bát giác, đại tháp, tháp Đa Bảo, tháp Du kỳ, tháp Bảo khiếp ấn, tháp Ngũ luân, tháp hình trứng, tháp vô phùng, tháp kiểu lầu gác, tháp mái dầy, tháp Kim cang bảo tọa, tháp mộ, tháp gỗ, tháp có góc57.

Trong các kiểu dáng tháp thì hình thể xưa nhất là kiểu bát úp. Theo luật Ma-ha-tăng-kỳ 33, Hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự 18, tháp kiểu bát úp được cấu tạo bởi các bộ phận: lan can, nền đàn, thân tháp, bát úp, bình đầu, luân cái, bình báu. Trong các di tích hiện còn thì Sơn-kỳ đại tháp/Sanchi có cấu trúc điển hình nhất và phù hợp với quy định của luật nhất58.

Lan can vòng quanh 4 phía tháp được dùng làm kiết giới phạm vi tháp, hồi lang (hành lang gấp khúc lượn vòng quanh) của các đại tự tháp đời sau có nguồn gốc từ lan can này. Nền đàn nằm trên mặt bằng của thân tháp, nền đàn ở Ấn Độ thường có hình tròn, Trung Quốc và Nhật Bản thì sử dụng cấu trúc tứ giác hoặc bát giác… Vào thế kỷ III, IV thì loại thân tháp 3 tầng xuất hiện, sau đó lại có các kiến trúc nhiều tầng như 5 tầng, 7 tầng, 9 tầng, 13 tầng, 15 tầng, 17 tầng, cho đến 37 tầng. Việc thân tháp diễn biến thành hình thức nhiều tầng có lẽ có liên quan đến văn kinh (Đại 24, 291 hạ): “Tướng luân59 có nhiều số, hoặc 1, 2, 3, 4 cho đến 13” được trích dẫn trong Tỳ-nại-da tạp sự 18, tức là thân tháp nhiều tầng và tướng luân nhiều tầng thật ra có quan hệ mật thiết…

Bát úp là khối bán cầu úp xuống, giống như cái bát úp ngược. Phần mộ của người Trung Quốc và các nước phương Đông khác từ xưa đã có hình dáng cái gò nhỏ, rất phù hợp với kiểu bát úp của tháp Phật. Nhưng đến đời sau thì hình bán cầu kiểu bát úp dần dần cao thêm…

Nhưng kiểu tháp của Tây Tạng thì trái lại, phía trên phình rộng ra, phía dưới tóp nhỏ lại, giống như hình cầu. Còn ở nội địa Trung Quốc và Nhật Bản thì hình dáng bát úp đã tóp lại rất nhỏ, chỉ còn giữ lại hình thức mà thôi.

Tướng luân còn gọi là bàn cái, thừa lộ bàn, luân cái, là kiến trúc hình chiếc mâm tròn nhiều lớp trên “bình đầu”, ở giữa có một cây trụ xuyên qua, trên đầu có lọng che. Từ thời đại Ấn Độ đã có tướng luân, số luân có nhiều lớp, như tháp Tước-ly ở Kiền-đà-la/Gandhara có 13 lớp tướng luân, Vĩnh Ninh tự tháp ở Lạc Dương có 30 lớp, Sơn-kỳ đại tháp thì chỉ có 3 luân. Các ngôi chùa ở Nhật Bản thường thấy có 9 lớp tướng luân, nên còn gọi là cửu luân60.

Ngoài tháp hình bát úp còn có nhiều kiểu tháp khác, chẳng hạn như:

1. Tháp Đa Bảo: Có nguồn gốc từ tháp Phật Đa Bảo nói trong phẩm Hiện bảo tháp, kinh Pháp hoa, là những ngôi tháp nói chung trên bảo tháp một tầng có phụ thêm thượng tầng (như mái nhà).

2. Tháp Du-kỳ: Kiểu tháp y cứ vào kiểu tháp nói trong kinh Du-kỳ, là biến dạng của bảo tháp phổ thông, tức ở chính giữa và 4 góc của đỉnh tháp có lập 5 tướng luân, trên mỗi tướng luân đều có thêm 5 luân nữa.

3. Tháp Bảo Khiếp Ấn: nền đàn và thân tháp đều có hình dạng núi Tu-di, trên thân tháp có lọng che hình vuông, bên trong có cất giữ Đà-la-ni Bảo Khiếp Ấn.

4. Cột tướng luân: Kiểu tháp y cứ vào kiểu tháp nói trong kinh Vô cấu tịnh quang đà-la-ni, tức chỉ tạo lập phần tướng luân có hình dáng cột tháp, đồng thời xem đó là tháp.

5. Tháp có thân hình chiếc bình: như tháp bảo hình, tháp oản, tháp năng tác.

6. Tháp Ngũ luân (còn gọi: Ngũ luân tháp-bà, Ngũ luân bình tháp-bà): Phần nhiều là kiểu tháp được Mật tông sử dụng. Tức xếp chồng 5 khối đá có hình dáng vuông, tròn, tam giác, bán nguyệt và bảo châu, trên đó lần lượt vẽ chủng tử của ngũ đại, theo thứ lớp tượng trưng cho 5 đại đất, nước, lửa, gió, hư không.

7. Tháp tán: tháp được kiến lập bằng cách trên cây trụ vuông làm lọng che, trên đỉnh đặt bảo châu.

8. Tháp Lục Địa Tạng: Tháp được kiến lập bằng cách trên cây trụ vuông có an trí Lục Địa Tạng.

9. Tháp vô phùng: Tức chỉ dùng một khối đá để làm mộ bia cho vị Tăng đã mất, hoặc dùng một khối đá hình trứng để làm mộ bia thì gọi là Noãn tháp.

10. Tháp gỗ: trên tấm ván nhỏ dài có khắc hình dạng tháp Ngũ luân, thông thường dựng trên đất mộ để cầu phước cho người chết.

11. Tháp có góc: Cũng là biến tướng của tháp Ngũ luân, tức là ghi chép kinh văn tiếng Phạn trên cây cột hình tứ giác nhỏ và dài, thường được dùng trong hội cúng dường khi khánh thành các phòng xá, được dựng trước phòng xá.

12. Tháp kiểu lầu gác…

13. Tháp mái dày…

14. Tháp Lạt-ma…

15. Tháp Kim cang bảo tọa…

Ngoài các loại tháp nói trên còn có hình tháp cao vút đến tận mây, là tượng trưng cho Phật giáo Nhật Bản. Trong các loại tháp nói trên, phần nhiều là các kiểu tạo tháp đặc thù chỉ Nhật Bản mới có. Ở Trung Quốc, dáng vẻ bên ngoài của các Phật tháp thông thường được chia làm 2 loại là Tằng tháp hình và Thiềm tháp hình. Trong các di tích đời Đường thì tháp Đại Nhạn 7 tầng hình tứ giác của chùa Từ Ân ở tỉnh Tây An là đại diện cho loại tháp Tằng tháp hình, còn tháp Tiểu nhạn 13 mái hình tứ giác ở chùa Tiến Phước là đại diện cho tháp Thiềm tháp hình61.

*Ngôi tháp Tây Tạng và Phật giáo Nguyên thủy

Ở Tây Tạng, bảo tháp Phật giáo được gọi là chorten. Các chorten nơi đây có hình dáng gần giống với các bảo tháp ở Ấn Độ, cụ thể là phong cách Bắc Ấn. Hình dáng có ba phần chủ yếu, phần đáy dưới cũng rộng, phần thân chính hình tròn vươn lên cao, mặt nghiêng mở rộng về phía trên (được gọi là anda), bên trên người ta đặt phần chính thứ hai. Cách xây dựng này cùng các thành phần hỗ trợ (được gọi là harmika) đánh dấu sự chuyển tiếp sang phần cuối cùng gồm có một cột với các chồng đĩa tròn hoặc những chiếc dù có kích thước nhỏ dần, số lượng chênh lệch từ tám đến mười ba cái. Với ý nghĩa truyền thống của Phật giáo, các chorten Tây Tạng, bên cạnh việc được coi là cái cốt tủy của chính Đức Phật, còn có ý nghĩa về vũ trụ, đặc biệt là phần đỉnh. Đỉnh chorten được cấu tạo bởi năm hình thể kỷ hà biểu thị cho ngũ hành. Phần đế vuông biểu thị cho sắc, trong khi vòng tròn bên trên biểu thị cho thức. Tiếp đến, hình tam giác tượng trưng cho tinh thần và nửa vòng tròn biểu thị cho Phật pháp. Trên cùng của kiến trúc là một viên bảo châu rực lửa tượng trưng cho nguyên lý tối thượng. Kiến trúc và những chi tiết trang trí này phần nào nói lên sự đa dạng của bảo tháp Phật giáo, nó thể hiện sự tiếp biến và việc bảo tồn phong cách đặc thù của mỗi nền văn hóa. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng những ngôi tháp này vẫn chưa thể hiện được sự đa dạng và phần nào còn chịu ảnh hưởng của hình mẫu nguyên thủy62.

Tại Tây Tạng, trên cơ sở của hình bán cầu ban đầu, tháp có thêm những phần mới như chân tháp, thân tháp, ngọn tháp. Ngày nay ở các quốc gia theo Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Kim Cang thừa như Ấn Độ, Tây Tạng, Mông Cổ, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia... tháp thường có cơ bản năm phần, từ dưới lên trên kết cấu như một người ngồi tọa thiền:

- Đế hình vuông thể hiện Địa đại (đất).

- Phần bầu tròn thể hiện Thủy đại (nước).

- Phần các nón nhọn hướng lên thể hiện Hỏa đại (lửa).

- Phần lọng che thể hiện Phong đại (gió).

- Phần trên cùng thể hiện Không đại (một khái niệm triết học trừu tượng có nghĩa “vừa là tinh thần vừa là vật chất, vừa là tất cả vừa không là gì”).

Năm phần này với con người sẽ sinh ra: xúc, vị, hương, thanh, sắc (cũng từ dưới lên trên: xúc giác - cảm xúc, màu sắc, vị, hương, tiếng và sắc). Qua ngôi tháp, con người sẽ tri giác được sự cấu thành của vạn vật và chính bản thân mình, sự đi lên từ vật chất đến trí huệ63.

Thông thường, dù tháp Phật có hình dáng như thế nào, lớn nhỏ ra sao thì hình dáng cơ bản của nó vẫn thường do ba bộ phận là nền tháp/chân tháp/đế tháp, thân tháp/bình tháp và đỉnh tháp/sát tháp/ngọn tháp tổ thành; trong bình tháp cung phụng nhục thân của hoạt Phật. Nền tháp có hình vuông, hình tròn, hình đa giác nhiều bậc; cũng gọi là “sư tử tòa”. Thân tháp là từng tầng hướng lên trên cao, càng lên cao càng thu nhỏ lại. Hình dạng bao quát là: đỉnh vòm tháp hình tròn, bàn thờ Phật hình vuông, có 13 tầng tháp nhọn tựa như “ô tròn”, vật trang trí là hoa sen hình ô, mặt trăng lưỡi liềm, mặt trời tròn và ngọn lửa. Đỉnh tháp/sát tháp nằm ở vị trí cao nhất của tháp cổ. Cấu tạo của nó gồm bệ sát, thân sát, đỉnh sát và cán sát. Hình dạng của loại tháp này, khiến tháp cao vút tựa như chạm mây, tạo nên khung cảnh hùng vĩ vô cùng. Bệ sát nằm trên thân tháp, nối tiếp với sát tháp, thường có hình núi Tu-di, cánh hoa sen ngửa, lá hoa kim ngân/hoa lá chịu lạnh hoặc bệ bằng. Bên trong của đỉnh tọa còn có huyệt/hang sát để giữ xá-lợi, tượng Phật, kinh Phật hay các cúng phẩm khác64.

Còn chi tiết tên gọi từng kết cấu của Phật tháp như sau: 1. Tát tăng (sát đất); 2. Thê cấp tùng (ba bậc cấp sát đất); 3. Đông thiên hoặc sâm xích (pháp tọa); 4. Tùng ni; 5. Bồn cung bối ma; 6. Bồn khánh; 7. Cấp cửu (Thập thiện); 8. Bạng lệnh tây (bốn tầng); 9. Bản điền bối ma (đế bình hình cánh sen); 10. Bố điệp (bình tháp); 11. Bố bạch hạ biên; 12. Cổ khâm mộc (cửa tháp); 13. Bố cấp bạch đan mộc (trang trí trên eo hình tháp); 14. Xích đán (đế đấu tháp); 15. Xích (đấu tháp); 16. Đột địa bạch ma (đế hình cánh sen); 17. Quần khoát cửu tùng (13 pháp luân); 18. Tát nhật a sai (mái hiên che mưa); 19. Đột cơ đóa tùng (lều tháp); 20. Đột (ô tháp); 21. Tư nhược hoặc kháp khắc (áo mưa); 22. Đạt ngõa (mặt trăng); 23. Ni-ma (mặt trời); 24. Đóa (đỉnh tháp)65.

Hai bộ tám đại bảo tháp được xây dựng trong thời gian ngắn sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết-bàn. Một bộ được biết đến như là tám đại thánh tích bảo tháp của những thành thị, chứa tám phần phân chia xá-lợi của Đức Phật. Bộ khác được biết đến như là bảo tháp Như Lai của tám nơi linh thiêng, tưởng niệm tám sự kiện chính trong cuộc đời của Đức Phật.66

Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ, người dân xây dựng tám bảo tháp để tưởng niệm tám sự kiện quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật, đây là truyền thống đã được hình thành trong Phật giáo Tạng truyền67. Tám loại hình chủ yếu của Phật tháp Tây Tạng bắt nguồn từ tám tháp trong Bát đại linh tháp danh hiệu kinh, còn gọi là tám tháp thiện thế. Tám loại tháp này từ hình dạng bốn tầng và có thể phân biệt như sau:

- Tháp Tích liên/Tây Tích liên, còn gọi là tháp Tụ liên/Liên tụ, thápđể tưởng nhớ Đức Phật đản sinh ở vườn Lâm-tỳ-ni, thành Ca-tỳ-la-vệ.

Còn được biết đến như là “Bảo tháp hoa sen chất chồng” hoặc “Sự ra đời của bảo tháp Sugata”, bảo tháp này đề cập đến sự ra đời của Đức Phật Gautama. “Lúc mới sinh, Đức Phật đi bảy bước ở bốn hướng” (Đông, Nam, Tây, Bắc). Ở mỗi hướng, hoa sen mọc lên, tượng trưng cho các phạm trú/brahmavihara: từ, bi, hỷ, xả. Phần đế/bệ của bảo tháp này có hình tròn, bốn tầng bậc và được trang trí với các đồ án hình cánh hoa sen. Đôi khi, bảy tầng bậc hoa sen chất chồng cũng được thể hiện. Điều này đề cập đến bảy bước đầu tiên của Đức Phật.

- Tháp Bồ-đề/Đông Tây Bồ-đề hoặc tháp Giáng Ma tức thápvề sự giác ngộ hay chiến thắng Ma vương, tưởng nhớ Đức Phật đánh bại Ma vương và giác ngộ dưới gốc cây Bồ-đề tại Bồ Đề Đạo Tràng/Bodh Gaya bên sông Ni-liên-thiền của nước Ma-ca-đà/Ma-yết-đà, nơi Đức Phật thành đạo.

Còn được biết đến như là “Bảo tháp về sự chinh phục Ma vương/Mara”, bảo tháp này tượng trưng cho sự thành tựu giác ngộ của Đức Phật khi 35 tuổi ở dưới gốc cây Bồ-đề tại Bodh Gaya, nơi Ngài đã chiến thắng những cám dỗ và công kích của thế gian, hiển hiện dưới hình thức Ma vương/Mara. Tháp Bồ-đề bốn tầng, hình vuông chỉnh tề.

- Tháp Đa môn (nhiều cửa hay cổng)hay tháp Cát tường/Nam Cát tường tưởng nhớ Đức Phật lần đầu “chuyển pháp luân” ở vườn Lộc Uyển tại thành Ba-la-nại nước Ca-thi.

Sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật thuyết pháp cho những đệ tử đầu tiên của mình ở Lộc Uyển. Tháp cát tường bốn tầng, bộ phận khoảng 1/3 giữa các mặt hơi nhô lên. Trên bốn tầng vẽ và điêu khắc hình cửa điện. Số lượng cửa điện dựa vào quy phạm nhất định mà có sự khác nhau. Dãy cửa ở mỗi bên của bậc tam cấp tượng trưng cho những giáo lý đầu tiên: Tứ diệu đế, Lục ba-la-mật, Bát chánh đạo và Thập nhị nhân duyên.

- Tháp Thiên giáng hay tháp Thần giáng/Đông thần giáng, tức tháp về sự đi xuống từ cõi trời (nơi ở của các vị thiên), để tưởng nhớ kỳ an cư mà Đức Phật đã thuyết pháp cho mẹ khi bà tái sinh ở cõi trời Đao Lợi, và Ngài đi xuống từ cõi trời ở thành Khúc Nữ của nước Tăng-già-thi/Sankasya.

Vào năm 42 tuổi, Đức Phật đã trải qua kỳ an cư tại cõi trời Đao Lợi, nơi mẹ của Ngài đã tái sinh. Để báo đáp mẹ, Ngài đã thuyết pháp cho bà. Các cư dân nơi đây đã xây dựng một bảo tháp ở Tăng-già-thi để tưởng nhớ đến sự kiện này. Tháp Thần giáng bốn tầng, về cơ bản giống với tháp Thần biến. Tại trang thờ Phật chính điện bình tháp có ba bậc thang, cũng có khi nhiều bậc thang hơn hay có thể nói đặc điểm của tháp này là có một chỗ nhô ra/lồi ra ở giữa/trung tâm tại mỗi bên chứa một cầu thang ba phần hoặc ba cấp bậc.

- Tháp Thần biến/Tây Bắc Thần biến tức tháp về những điều thần diệu, tưởng nhớ nơi Đức Phật thuyết Đại Bát-nhã kinh, hiện thần thông giáo hóa những tín đồ ngoại giáo (tirthika) ở vườn Kỳ-đà/Jetavana tại Xá-vệ/Shravasti.

Bảo tháp này đề cập đến nhiều điều thần diệu khác nhau được Đức Phật thực hiện khi ngài 50 tuổi. Truyền thuyết thừa nhận rằng Ngài đã chế ngự các Ma vương/Mara và người theo dị giáo bằng cách lôi cuốn họ vào những cuộc tranh luận trí tuệ và cũng như thực hiện những điều thần kỳ. Bảo tháp này được nâng lên bởi vương quốc Lichavi để tưởng niệm sự kiện này. Tháp Thần biến bốn tầng, bộ phận khoảng 1/3 giữa các mặt hơi nhô lên.

- Tháp Hợp ly hay tháp Hòa hiếu/Hòa hợp hoặctháp Giải hòa để tưởng nhớ sự hợp nhất tranh cãi trong Tăng đoàn tại Trúc Lâm/Veluvana tại thành Vương-xá/Rajagriha (Rajghir).

Bảo tháp này tưởng niệm việc Đức Phật phân giải tranh chấp giữa Tăng đoàn. Một bảo tháp trong thiết kế này được xây dựng ở vương quốc Magadha, nơi đã diễn ra ra sự hòa giải. Nó có bốn tầng hình bát giác với các cạnh bằng nhau cũng có dữ liệu cho rằng tháp có hình vuông, hình lục giác.

- Tháp Tôn thắng tứctháp về sự chiến thắng hoàn toàn.

Bảo tháp này tưởng niệm việc Đức Phật trải qua ba tháng cuối cùng trước khi nhập Niết-bàn tại thành Quảng Nghiêm của nước Tỳ-xá-ly/Vaisali. Nó chỉ có ba tầng bậc, hình tròn hay vuông và không trang trí.

- Tháp Niết-bàn để tưởng nhớ Đức Phật nhập Niết-bàn tại Câu-thi-na/Kushinagara.

Bảo tháp này tưởng niệm sự kiện Đức Phật nhập diệt khi Ngài 80 tuổi. Bảo tháp có dạng hình chuông và thường không có trang trí, bình tháp đặt ngược trực tiếp trên đế tháp68.

- Tháp Thời luân/Kalachakra

Một loại bảo tháp thứ chín tồn tại, bảo tháp Kalachakra. Biểu trưng của bảo tháp không liên quan đến các sự kiện trong cuộc đời của Đức Phật, mà thay vào đó là biểu tượng của Mật pháp Thời luân/Kalachakra Tantra, được tạo ra để bảo vệ khỏi những năng lượng tiêu cực69.

Ngoài ra, trong Phật giáo Tạng truyền còn đề cập đến linh tháp là một loại hình kiến trúc đặc biệt trong Phật tháp, thường là một loại Phật tháp cung phụng và bảo tồn pháp thể hoặc xá-lợi của các hoạt Phật, thượng sư. Linh tháp là bộ phận tổ thành quan trọng của Phật tháp hình thức Tây Tạng, là một loại kiến trúc có hai công dụng là Phật tháp và tháp táng70. Linh tháp tập hợp tư tưởng “tứ giới” (tức đất, lửa, nước, không khí) của Phật giáo vào nhất thể, khiến cho bốn yếu tố này thông qua linh tháp mà biểu hiện thành thực thể hữu hình hữu chất. Di thể của hoạt Phật, cao tăng bảo tồn trong linh tháp, không chỉ thể hiện tư tưởng Phật giáo nhục thể quy về “tứ giới”, mà còn tượng trưng cho một vòng luân hồi sinh tử “sinh ra - sống - tinh thần - chết đi - sinh ra”. Tòa linh tháp đầu tiên của Tây Tạng là linh tháp Đại sư Tịch Hộ bên chùa Tang Da, Sơn Nam71.

Trong Phật giáo Tạng truyền luôn có tập tục xây dựng linh tháp cho Đạt-lai Lạt-ma, Ban Thiền và các cao tăng nổi tiếng. Tại thời kỳ đầu Thổ Phồn, Tây Tạng đã có linh tháp, đến nay tập tục xây dựng linh tháp vẫn tiếp tục tồn tại ở Tây Tạng và Butan72.

Trong Hồng cung phía Tây cung Bố Đạt Lạp còn bảo tồn số lượng linh tháp lớn, nổi tiếng nhất có tám tòa linh tháp của Đạt-lai Lạt-ma và một số tòa linh tháp của thượng sư, chúng là bộ phận tổ thành quan trọng của cung Bố Đạt Lạp. Trong Hồng cung có linh tháp của Đạt-lai Lạt-ma đời thứ 5, đời thứ 7, đời thứ 8, đời thứ 9, đời thứ 10, đời thứ 11, đời thứ 12 và đời thứ 13, tổng cộng 8 tòa. Trong Đạt-lai Lạt-ma các đời, duy có Đạt-lai Lạt-ma đời thứ 6 là không có linh tháp, linh tháp của Đạt-lai Lạt-ma từ đời thứ nhất đến đời thứ tư lần lượt đặt ở chùa Trát Thập Luân Bố của Nhật Khách Tắc và chùa Triết Bạng ở Lạp Tát. Những linh tháp này không chỉ có tính chất độc đáo mà còn có giá trị lịch sử, văn vật vô cùng quan trọng73.

Chùa Songyue (523 CN), Hà Nam, Trung Quốc được cho là bắt nguồn từ mô hình tháp - bảo tháp Gandharan

Chùa Songyue (523 CN), Hà Nam, Trung Quốc được cho là bắt nguồn từ mô hình tháp - bảo tháp Gandharan

* Tháp Trung Hoa và Phật giáo Đại thừa

Tháp ở các quốc gia theo Phật giáo Đại thừa như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên - Hàn Quốc thường có dạng như một tòa lầu nhiều tầng tuy nhiên vẫn thu nhỏ dần. Có sự thay đổi về kiến trúc này là vì theo quan niệm của người Trung Hoa, tháp là nơi lưu giữ xá-lợi của Đức Phật, thiêng liêng và thần thánh, phải dùng hình thức kiến trúc cao quý để tôn trí. Trung Quốc vào các thời kỳ Tần Thủy Hoàng và Hán Vũ Đế đã xây dựng lầu cao gác lớn để nghênh hầu thần tiên, nên khi thờ phụng Phật, người Trung Hoa cũng dùng loại kiến trúc vương giả này. Ngoài ra, khi ngửa đầu chiêm bái tháp cao, con người tự nhiên có lòng kính trọng và ngưỡng vọng; xây tháp cao để thờ xá-lợi của Đức Phật là vì thế.

Tuy nhiên, hình thức tháp Phức Bát của Ấn Độ không mất đi khi vào Trung Hoa. Nó đã được cải biến thành một kiểu tháp mới chia thành ba phần: Địa cung nền tháp, thân tháp và tháp sát. Tháp được dùng để an trí xá-lợi Đức Phật nên áp dụng phương thức lăng mộ địa cung để cải táng. Nền tháp làm nền tảng cho tòa tháp, phủ úp lên trên địa cung. Thân tháp là kết cấu chủ yếu của tòa tháp, có thể rỗng hoặc đặc. Tháp sát nằm ở đỉnh của tháp, bản thân giống một tòa tháp nhỏ, chia làm sát tọa, sát thân và sát đỉnh. Loại hình kiến trúc này dần dần phổ biến và được tiếp thu ở các nước chịu sự truyền bá của Phật giáo Trung Hoa.

Ở Trung Hoa, tháp Phật có nhiều loại hình và kết cấu. Nếu chia theo hình dáng, có tháp hình vuông, hình lục giác, hình bát giác, hình tròn. Nếu chia theo hình khối sẽ có tháp đơn tầng (tháp mộ gọi là Bảo châu), tháp 3 tầng, 5 tầng, 7 tầng, 9 tầng… (trong thực tế tháp mộ có cả 6 tầng). Nếu chia theo vật liệu kiến trúc thì có tháp gỗ, tháp gạch, tháp sắt, tháp lưu ly. Có thể đơn cử một vài loại hình tiêu biểu như sau74:

- Tháp kiểu lầu các: Bắt nguồn từ lầu các trong kiến trúc truyền thống Trung Quốc. Loại tháp này có lịch sử lâu đời, hình thể cao lớn. Tuy nhiên do dễ bị hỏa hoạn nên từ thời Tùy Đường trở đi, loại tháp lầu các bằng gỗ ít xuất hiện mà thay vào đó là những vật liệu bằng gạch, đá.

- Tháp kiểu mật thiềm: Là loại tháp có rất nhiều tầng hiên ở bên ngoài. Tháp chùa Tung Nhạc (Hà Nam, Trung Quốc) là một ví dụ.

- Hoa tháp: Là loại hình tháp được trang trí phức tạp như một đóa hoa ở phần nửa trên. Tồn tại chủ yếu vào thời Tống, Liêu, Kim.

- Ngoài ra còn có các loại hình khác như: tháp kiểu đình các, tháp kiểu Kim Cang bảo tòa, Quá nhai tháp, Thiết tháp, Phồn tháp…

Nhìn chung, tháp Trung Hoa phát triển theo kiểu “kiến trúc nhà”. Cũng có khoảng không gian bên trong tháp. Xét về mặt kiến trúc, những ngôi tháp Trung Hoa chia thành 2 phần: phầm diêm thức và phần lầu thức75.

- Diêm thức là kiến trúc có nhiều điểm nhô ra. Tiêu biểu là tháp của chùa Tung Nhạc (Hà Nam, Trung Quốc) đã nói ở trước. Tháp bằng gạch, bình đồ 12 cạnh, 15 tầng. Tầng dưới là một phòng bát giác với 4 cửa. Các tầng trên thì được xây bằng gạch nhô ra dần, rồi đặt cấp vào dần thành ra “diêm”. Các tầng sát nhau, có tam cấp lên.

- Lầu thức thì tháp được xây theo kiến trúc lầu, vốn bằng gỗ, mỗi tầng có mái lợp nhô ra. Tiêu biểu là tháp Thích Ca của chùa Phật Cung (Sơn Tây, Trung Quốc).

* Tháp Việt Nam

Kiến trúc tháp cao tầng là một hình thức quan trọng của kiến trúc Phật giáo Việt Nam thuở ban đầu, với chức năng nơi tưởng niệm và hành lễ tôn giáo, chứa đựng xá-lợi sư tăng, mang tính chất đột phá không gian thu hút điểm nhìn từ xa. Tháp ở Việt Nam không quá cao, không quá to, mà phù hợp với những ngôi chùa trải rộng, tháp một tầng và hai tầng, mang tính tượng trưng. Nhưng một số thiền tự có cả rừng tháp, như quần thể vườn tháp chùa Phật Tích và chùa Bổ Đà từ hàng chục đến hàng trăm tháp nhỏ của nhiều đời sư tăng76.

Những giáo phái Phật giáo khác nhau đã có những quan niệm khác nhau về tháp. Phái Tịnh Độ ở Việt Nam đã cho chúng ta loại tháp Hòa Phong (chùa Dâu) hay tháp Cửu Phẩm Liên Hoa (chùa Động Ngọ và chùa Bút Tháp) thì biểu trưng các tầng tháp về các kiếp tu của con người (“tam phẩm vãng sinh”). Những giai đoạn đầu tiên trong việc hành đạo và truyền đạo tại Việt Nam, các sư tăng đều thực hiện ở các tháp hơn là chùa như sau này. Vua Lý Thánh Tông cho xây 4 tháp lớn: tháp Đại Thắng Tư Thiên tức là tháp Báo Thiên (1057), tháp Tường Long (1057 - 1059), tháp chùa Phật Tích (1066), tháp Thăng Bình (1068). Vua Lý Nhân Tông cũng cho xây rất nhiều tháp. Có những tháp phải xây trong nhiều năm mới hoàn tất77.

Có những ngọn tháp trở nên nổi tiếng như tháp chùa Phật Tích xây năm 1057, theo tính toán có thể cao tới 60m và tháp chùa Báo Thiên nay là truyền thuyết, cao đến trăm trượng. Tất cả những ngọn tháp thời Lý đã không còn tồn tại, chỉ còn hai ngọn tháp thời Trần (1226 - 1400) tương đối nguyên vẹn; là tháp chùa Phổ Minh, Nam Định và tháp Bình Sơn, chùa Vĩnh Khánh, Vĩnh Phúc, cao chừng 16 mét, đều xây bằng gạch trần, đỏ au nổi bật trên nền trời xanh. Ngoài ra còn tháp Hòa Phong, chùa Dâu với tạo hình cho thấy những đường nét nghệ thuật đời Trần, tháp đã đổ nát nhiều, được trùng tu thời Lê Trung Hưng. Thế kỷ XVII, có tháp Báo Nghiêm, chùa Bút Tháp, Bắc Ninh, cũng chỉ cao ngần đó, nhưng là một tháp đá bát giác, có nhiều chạm khắc trang trí tinh nhã; thế kỷ XIX, là tháp chùa Thiên Mụ, Huế, một tháp gạch cũng giống như tháp gạch chùa Cổ Lễ, Nam Định78.

Bảo tháp ở miền Bắc, thường là tháp có 4 mặt (tứ giác); ở miền Trung, tháp thường có 8 mặt (bát giác); ở miền Nam, tháp thường có 6 mặt (lục giác)79.

Xây dựng một ngôi tháp

Muốn biết nguồn gốc của việc xây tháp phải trở về thời Đức Phật, như luật Thập tụng 56 ghi: Trưởng giả Tu-đạt từng xin tóc và móng tay Phật để xây tháp cúng dường; còn luật Ma-ha-tăng-kỳ 33 ghi: Vua Ba-tư-nặc vâng lời Phật dạy, xây dựng tháp Phật Ca-diếp để lễ bái cúng dường. Sau khi Phật nhập diệt, có 8 nước như nước Ba-hà, nước Nhân-già-la, nước La-ma-già tranh giành xá-lợi, được Bà-la-môn Hương Tánh chia xá-lợi Phật ra làm 8 phần cho 8 nước, mỗi nước đều mang về xây tháp cúng dường, đây là những ngôi tháp được xây dựng đầu tiên. Ngoài ra, theo A Dục vương truyện 1, Thiện kiến luật Tỳ-bà-sa 1, khoảng 20 năm sau khi Phật nhập diệt, vua A Dục nước Ma-kiệt-đà có xây 84.000 ngôi tháp báu ở các nơi trong lãnh thổ. Theo sự khảo chứng của học giả người Nhật là Dật Kiến Mai Vinh thì ngôi tháp bằng gạch ở phần lõi ngôi tháp cổ trong các di tích ở Sơn-kỳ (Sanchi) chính là do vua A Dục thuở xưa đã xây dựng80.

Để xây dựng một bảo tháp, việc truyền Pháp và các lễ nghi được thông linh với một cao tăng Phật giáo là điều cần thiết. Loại bảo tháp được xây dựng trong một khu vực nào đó được quyết định cùng với bậc thầy trợ giúp việc xây dựng. Đôi khi loại bảo tháp được chọn kết nối trực tiếp với các sự kiện đã diễn ra trong khu vực.

Kho tàng

Tất cả các bảo tháp đều có một kho tàng chứa đầy các vật thể khác nhau. Các vật phẩm dâng cúng nhỏ bằng đất sét được gọi là tsatsas trong tiếng Tây Tạng lấp đầy hầu hết kho tàng. Bản thân việc tạo ra nhiều loại tsatsas khác nhau chính là một lễ nghi. Những câu thần chú viết trên giấy được cuộn thành từng cuộn mỏng và đặt vào những bảo tháp nhỏ bằng đất sét. Một lớp tsatsas được đặt vào kho tàng, và khoảng trống giữa chúng được lấp đầy bởi cát khô. Trên bề mặt mới được tạo ra như vậy, một lớp tsatsas khác được hình thành, và cứ tiếp tục như vậy cho đến khi toàn bộ không gian của kho báu được lấp đầy.

Số lượng tsatsas cần thiết để lấp đầy hoàn toàn kho tàng phụ thuộc vào kích thước của nó và kích thước của tsatsas. Ví dụ, bảo tháp Kalachakra ở miền Nam Tây Ban Nha chứa khoảng 14.000 tsatsas.

Châu báu và các vật thể “quý giá” khác cũng được đặt trong kho tàng. Không nhất thiết chúng phải đắt tiền, vì giá trị tượng trưng mới là điều quan trọng, chứ không theo giá cả thị trường. Người ta tin rằng càng đặt nhiều vật thể vào trong bảo tháp thì năng lượng của bảo tháp càng lớn mạnh.

Cây đời

Một yếu tố quan trọng trong mỗi bảo tháp là “Cây đời”. Đây là một cột gỗ được bao phủ bởi đá quý và hàng nghìn câu thần chú; nó được đặt trong kênh trung tâm của bảo tháp. Nó được đặt trong suốt một cuộc lễ hoặc sự khởi đầu/khai tâm, nơi những người tham gia cầm những dải ruy băng đầy màu sắc nối kết với Cây đời. Những người tham gia cùng nhau thực hiện với các mong muốn tích cực và mạnh mẽ nhất của họ, được lưu trữ trong Cây đời. Bằng cách này, bảo tháp đảm trách lấy nhiệm vụ và bắt đầu hoạt động81.

Những lợi ích

Việc xây dựng một bảo tháp được coi là vô cùng lợi ích, để lại những nghiệp báo rất tích cực về tinh thần. Những lợi ích trong tương lai từ hành động này dẫn đến việc tái sinh may mắn. Kết quả là có được những lợi ích may mắn của thế gian, chẳng hạn như được sinh ra trong một gia đình giàu có, có thân hình đẹp đẽ, giọng nói hay, hấp dẫn, mang lại niềm vui cho người khác, và có một cuộc sống hạnh phúc lâu dài và mong muốn của một người nhanh chóng thành hiện thực. Ở mức độ tuyệt đối, người ta cũng sẽ có thể nhanh chóng đạt đến sự giác ngộ, mục tiêu của Phật giáo82.

Mặt khác, việc phá hủy bảo tháp được coi là một hành động cực kỳ tiêu cực, tương tự như việc giết người. Một hành động như vậy được cho là sẽ tạo ra những nghiệp báo tiêu cực lớn, dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng trong tương lai. Người ta nói rằng hành động này khiến tâm trí rơi vào trạng thái hoang tưởng sau đó dẫn đến cái chết, dẫn đến những sự tái sinh hoàn toàn bất hạnh/rủi ro83.

Các kinh điển và các giáo thuyết xưa nay đều cho rằng tạo tháp có công đức rất lớn, như kinh Vô lượng thọ, hạ cho rằng xây tháp tạo tượng là nhân hạnh vãng sinh Tịnh độ.

Kinh Thí dụ nêu một quả báo thù thắng của việc tạo tháp như sau:

1. Không sinh nơi biên quốc.

2. Không bị bần cùng, khốn khổ.

3. Không thọ thân ngu si, tà kiến.

4. Có thể được làm vua 16 nước lớn.

5. Thọ mạng lâu dài.

6. Được sức mạnh như Kim Cang Na-la-diên.

7. Được phước đức rộng lớn không ai sánh bằng.

8. Được chư Phật, Bồ-tát từ bi thương xót.

9. Đầy đủ tam minh, lục thông, bát giải thoát.

10. Được vãng sinh về các tịnh độ trong 10 phương.

Ngoài ra, kinh Tạo tháp công đức, kinh Tạo tháp diên mạng cũng nêu các công đức khác như: sống lâu, sinh lên cõi trời, diệt trừ 5 tội vô gián, thành Phật. Kinh Hữu nhiễu Phật tháp công đức cho rằng nhiễu tháp (còn gọi tuyền tháp) xa lìa được 8 nạn, đầy đủ các sắc tướng vi diệu, được tài bảo, phước đức, sống lâu, cho đến được làm thầy trời, người.

Kinh Đề vị cũng cho rằng tuyền tháp có 5 công đức như sau:

1. Đời sau được thân tướng xinh đẹp, khôi ngô.

2. Được tiếng nói trong trẻo, êm ái.

3. Được sinh lên cõi trời.

4. Được sinh vào nhà vương hầu.

5. Được đạo nê-hoàn.

Trong kinh Niết-bàn, quyển 41, Đức Phật có chỉ cách xây tháp: tháp để thờ xá-lợi của Phật thì cất 13 tầng. Tháp thờ Bích chi Phật thì có 11 tầng. Tháp của vị A-la-hán thì xây 4 tầng. Còn tháp của vị Chuyển luân vương thì chẳng nên xây tầng, là vì vị Chuyển luân vương chưa thoát khỏi các trói buộc trong Tam giới.

Còn theo luật Ma-ha-tăng-kỳ 33, Hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự 18: Nếu xây tháp để thờ Như Lai thì phải đầy đủ các cấu trúc nói trên, nếu xây tháp để thờ Độc giác thì không được an trí bình báu, nếu xây tháp để thờ A-la-hán thì tướng luân không được vượt quá 4 tầng, nếu xây tháp thờ “Bất hoàn quả” thì tướng luân không được vượt quá 3 tầng, nếu xây tháp thờ “Nhất lai quả” thì tướng luân không được vượt quá 2 tầng, nếu xây tháp thờ “Dự lưu quả” thì tướng luân không được vượt quá 1 tầng; nếu xây tháp để thờ người hiền thiện trong hàng phàm phu thì nên xây đầu bằng, nhưng không được dùng luân cái.

Trong Phật giáo, nhiễu tháp đã là một nghi lễ và thực hành sùng kính quan trọng kể từ thời sơ khai, và do đó, các bảo tháp luôn có một con đường pradakhshina quanh chúng. Nhiễu tháp đều phải đi theo chiều bên phải làm chuẩn hay đi theo chiều kim đồng hồ. Lúc nhiễu tháp phải cúi đầu nhìn xuống để tránh dẫm đạp côn trùng trên mặt đất, không được liếc ngó 2 bên, không được khạc nhổ trước tháp, không được đứng trong tháp nói chuyện với người. Ngoài ra, không chỉ tạo tháp, nhiễu tháp mà sửa tháp, quét tháp, lễ tháp đều được công đức không gì lớn bằng84.

Như đã trình bày trên, tháp là một tập thành đa dạng về công năng và kiểu thức kiến trúc. Tuy xuất phát từ Ấn Độ, song ở từng quốc gia khác nhau, tháp có những biến tấu phong phú, mỗi mỗi đều có những sáng tạo độc đáo không kể xiết. Mục đích của bài viết này là cung cấp cho bạn đọc những thông tin cơ bản để có thể có sự phân biệt khi chiêm bái các danh lam, thánh tích.

________

(1) Theo:

- Thích Minh Cảnh chủ biên. Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập 9: Th, tr.7697-7706.

- Meher McArthur (2005). Tìm hiểu mỹ thuật Phật giáo, NXB.Mỹ Thuật, tr.216-218.

- Đoàn Trung Còn (2011). Phật học từ điển. NXB.Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.1267-1268.

(2) James Stevens Curl (2000). A Dictionary of Architecture and Landscape Architecture, Đại học Oxford xb.

(3) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 9: Th, tr.7697-7706.

(4) Thích Minh Cảnh chủ biên. Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập 2: C-CH-D, tr.402.

(5) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 9: Th, tr.7697-7706.

(6) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 2: C-CH-D, tr.402.

(7) Đoàn Trung Còn (2011). Sđd.

(8) Thích Minh Cảnh chủ biên. Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập 1: A-B, tr.524-525.

(9) Chân Nguyên - Nguyễn Tường Bách (1999). Từ điển Phật học, NXB.Thuận Hóa.

(10) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 1: A-B, tr.524-525.

(11) Theo:

Coomaraswamy, Ananda K. (1972). History of Indian and Indonesian art, tr.12.

Bénisti, Mireille; K, Thanikaimony (2003). Stylistics of Buddhist art in India. Trung tâm mỹ thuật quốc gia Indira Gandhi, tr.12.

(12) Encyclopædia Britannica (2008). Pagoda.

(13) Le Huu Phuoc (2009). Buddhist architecture. Grafikol xb, tr.140-174.

(14) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.143.

(15) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.140-174.

(16) Amaravati: The Art of an early Buddhist Monument in context, tr.23.

(17) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.149-150.

(18) “De l’Indus a l’Oxus : archaeologie de l’Asie Centrale”, Pierfrancesco Callieri xb, tr.212.

(19) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.181.

(20) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.182-183.

(21) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.173.

(22) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.174-176.

(23) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.176-177.

(24) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.179.

(25) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.178.

(26) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.179-180.

(27) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.238-248.

(28) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.234.

(29) Encyclopædia Britannica (2008), torana.

(30) Encyclopædia Britannica (2008), torii.

(31) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.183.

(32) Le Huu Phuoc (2009). Sđd, tr.180.

(33) Meher McArthur (2005). Sđd.

(34) Theo:

Meher McArthur (2005). Sđd.

Đặng Vinh Dự (2015). Từ tháp Phật đến tháp mộ - Một biểu tượng của hành trình giải thoát, Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 85.

[https://web.archive.org/web/20181104114253/http://tapchivanhoaphatgiao.com/nghien-cuu/tu-thap-phat-den-thap-mo-mot-bieu-tuong-cua-hanh-trinh-giai-thoat.html]

(35) Đặng Vinh Dự (2015). Sđd.

(36) Meher McArthur (2005). Sđd.

(37) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 9: Th, tr.7697-7706.

(38) Robert Beer (2003). The handbook of Tibetan Buddhist symbols. Shambhala xb, tr.196-198.

(39) Karma Guen [https://www.karmaguen.org/].

(40) Buddhist Stupa.

[https://www.andalucia.com/benalmadena/benalmadena-pueblo/buddhist-temple#google_vignette].

(41) “Stupa construction at Amaravati Buddhist Monastery”. [www.buddhamind.info.].

(42) Meher McArthur (2005). Sđd.

(43) Phan Cẩm Thượng. Tháp của Phật. Giác Ngộ Online.

[https://web.archive.org/web/20200812030920/https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=5E4413].

(44) Meher McArthur (2005). Sđd.

(45) Introduction to stupas.

[https://www.stupa.org.nz/stupa/intro.htm].

(46) Robert Beer (2003). Sđd.

(47) Meher McArthur (2005). Sđd.

(48) Robert Beer (2003). Sđd.

(49) Nặc Bố Vượng Điển (2011). Pháp khí Mật tông, NXB.Hồng Đức, tr.52-53.

(50) Robert Beer (2003). Sđd.

(51) Nặc Bố Vượng Điển (2011). Sđd.

(52) Le Huu Phuoc (2010). Buddhist architecture. Grafikol xb, tr.140.

(53) Introduction to stupas.

[https://www.stupa.org.nz/stupa/intro.htm]

(54) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 9: Th, tr.7697-7706.

(55) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 9: Th, tr.7697-7706.

(56) Vũ Thỏa. Nguyên Ninh Cống Bố, Sen Thu (dịch) (2011). 1.000 vấn đề về Mật tông. NXB.Thời Đại, tr.610-611.

(57) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 9: Th, tr.7697-7706.

(58) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 9: Th, tr.7697-7706.

(59) Theo Từ điển Phật học Huệ Quang (Tập V, tr.4980): Tướng luân (còn gọi Thừa lộ bàn, Lộ bàn, Luân cái) là kiến trúc hình trụ được xếp chồng lên nhau trên phần “bình đầu” của tháp Phật.

(60) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 9: Th, tr.7697-7706.

(61) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 9: Th, tr.7697-7706.

(62) Đặng Vinh Dự (2015). Sđd.

(63) “Phan Cẩm Thượng. Sđd.

(64) Theo:

Nặc Bố Vượng Điển (2011). Sđd.

Vũ Thỏa. Nguyên Ninh Cống Bố, Sen Thu (dịch) (2011). 1.000 vấn đề về Mật tông. NXB.Thời Đại, tr.494.

(65) Vũ Thỏa. Nguyên Ninh Cống Bố, Sen Thu (dịch) (2011). Sđd, tr.609.

(66) Robert Beer (2003). Sđd.

(67) Nặc Bố Vượng Điển (2011). Sđd.

(68) Robert Beer (2004). The Encyclopedia of Tibetan Symbols and Motifs. Serindia xb.

(69) “Kalachakra Stupa”. karmaguen.org.

[https://web.archive.org/web/20081205055317/http://www.karmaguen.org/stupa_kalachakra_en.html].

(70) Vũ Thỏa. Nguyên Ninh Cống Bố, Sen Thu (dịch) (2011). Sđd, tr.610-611.

(71) Vũ Thỏa. Nguyên Ninh Cống Bố, Sen Thu (dịch) (2011). Sđd, tr.609.

(72) Vũ Thỏa. Nguyên Ninh Cống Bố, Sen Thu (dịch) (2011). Sđd, tr.610-611.

(73) Vũ Thỏa. Nguyên Ninh Cống Bố, Sen Thu (dịch) (2011). Sđd, tr.610-611.

(74) Đặng Vinh Dự (2015). Sđd.

(75) Kiêm Đạt (2007). Kiến trúc tháp Phật giáo Việt Nam, chuyên mục Mỹ thuật Phật giáo, Tu viện Quảng Đức.

[http://www.tuvienquangduc.com.au/vanhoa/36kientruc04.html].

(76) “Phan Cẩm Thượng. Sđd.

(77) Kiêm Đạt (2007). Sđd.

(78) “Phan Cẩm Thượng. Sđd.

(79) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 1: A-B, tr.524-525.

(80) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 9: Th, tr.7697-7706.

(81) “Miracle Stupa - Stupa”. stupa.pl.

[http://www.stupa.pl/en_stupa.html]

(82) “Benefits Resulting from the Building of Stupas”. stupa.org.

[https://www.stupa.org.nz/stupa/benefit.htm].

(83) Lopon Tsechu Rinpoche (1998). The Four Thoughts which Turn the Mind from Samsara. Phật giáo ngày nay, Tập 5.

[https://web.archive.org/web/20090303093029/http://www.diamondway-teachings.org/export/en/content/advanced/tsechu_4thougths.html].

(84) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, Tập 9: Th, tr.7697-7706.

(NSGN 340 - NSGN 341)

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày