Cảm nhận trời đất giao hòa ngày xuân mà lòng xốn xang quen quen lạ lạ, đi chừng 4 cây số tới chùa Giám. Vẫn dưới vùng trời này mà hương xuân từ cửa thiền làm tăng thêm cảm xúc thật mầu nhiệm. Ngay trước cổng Tam quan có 3 chữ Hán “Quán Tự Tại”. Qua cổng tam quan là hai bên vườn cây xanh, một hồ hình chữ nhật trồng hoa súng màu cánh sen, cách một lối đi là cái hồ non bộ, vườn cảnh mô phỏng thiên nhiên sơn thủy hữu tình, liền đó là sân tiền đường rộng lát gạch vuông màu đỏ. Xung quanh là lối đi nối sang hai nhánh, bên phải là 5 gian nhà khách thoáng mát với những cánh cửa gỗ chạm khắc hình nổi từng ô trên tấm cửa rất kỳ công tạo thành những bức tranh ước lệ kiểu Đông hồ bằng gỗ mầu nâu giản dị mang phong cách nghệ thuật rất riêng. Dường như đạo lực của Thiền sư – danh y Tuệ Tĩnh đang lan tỏa khiến bước chân lữ khách cứ quẩn quanh hoài trong khuôn viên của ngôi chùa với lòng thành kính. Dừng chân trước tấm bảng giới thiệu lịch sử chùa Giám chỉ khoảng vài chục hàng chữ nhưng chứa đựng hàng trăm năm thời gian, ghi dấu biết bao công lao to lớn của danh y Tuệ Tĩnh và công đức của những người tạo dựng chùa từ bao đời đến nay. Nguyên thủy của chùa Giám là Nghiêm Quang Tự do sư Hải Triều trụ trì, nằm trên nền đất trống phía đông huyện Cẩm Giàng được xây dựng năm 1336 vào thời Lý, từ thời đó Việt Nam làm chùa, chủ yếu bằng gỗ và lợp ngói đỏ nên các hạng mục công trình đều phải có những bàn tay xây dựng và trạm khắc có nghề uyên thâm. Nhờ vậy khi ngôi chùa hình thành đã trở thành một công trình văn hóa nghệ thuật của Phật giáo thời bấy giờ và vẫn có giá trị với thời nay. Theo sử ghi lại, xưa kia hai bên cổng chùa có hai cây thị gần 1000 tuổi. Do bị ngập lụt nhiều và ảnh hưởng của bom đạn thời Pháp nên ngôi chùa cổ này đã bị xuống cấp nhiều. Tháng 4 năm 1970, chùa Giám chuyển về xã Cẩm Sơn hiện nay, cách mặt bằng cũ gần 7 cây số, được dựng lại nguyên kiến trúc cũ. Do các tượng và các vật liệu có giá trị văn hóa cần phải bảo tôn nguyên dạng nên việc di chuyển tượng hoàn toàn bằng phương tiện thô sơ để được bảo quản tốt. Với lòng thành kính các vị Bồ Tát và danh y Tuệ Tĩnh nên bà con nông dân nơi đây đã đóng góp sức lao động của mình kiên trì vận chuyển ròng rã suốt 7 tháng mới xong. Tổng cộng 511 chuyến xe bò kéo và 7.358 công lao động. Cho đến năm 1975 chùa Giám ở khu đất mới được hoàn chỉnh. Quan Âm Thị kính Tuy là ngôi chùa chủ yếu thờ ông tổ thuốc nam là danh y Tuệ Tĩnh nhưng trong chánh điện có đầy đủ các tượng Phật Thích Ca và các vị Bồ tát, tượng Phật Đản Sanh, tượng Quan Âm Thị Kính và Thập Điện Diêm Vương. Trong nhà phẩm là tòa tháp Cửu phẩm Liên hoa bằng gỗ hình lục giác màu cánh sen có 9 tầng, mỗi tầng đều có 18 vị bồ tát bằng đồng ngự và 54 tầng cánh sen nổi, khắc những họa tiết sinh động. Tổng cộng là 145 pho tượng, duy nhất tượng Phật A Di Đà ngự tầng trên cùng, khách viếng chùa không thể chiêm ngưỡng mà chỉ bái vọng mà thôi. Tòa Cửu phẩm liên hoa nặng 4 tấn, nếu đẩy sẽ xoay vòng tròn, là một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật bằng gỗ độc đáo nhất trong kiến trúc Phật giáo Việt Thập bát la hán Là khu di tích nên chùa Giám đã được chú trọng về nghệ thuật kiến trúc, đi đôi với giá trị nghệ thuật về tượng Phật và điêu khắc trong nội thất, có thể nói là hoàn hảo cả về bố cục không gian, họa tiết từng phần của các hạng mục công trình. Quan sát toàn cảnh kiến trúc chùa Giám tuy giới hạn trong một không gian nhưng các kiến trúc sư, các nghệ nhân đã tạo trên mặt bằng của chùa sự liên hoàn của các hạng mục tôn lên vẻ tráng lệ cổ kính, ẩn chứa nhiều tầng trí tuệ văn hóa giá trị hiếm có. Ngôi nhà phẩm rộng 7,90 m2 cao trên 10m, khung nhà bằng gỗ, mái ngói vẩy cá rêu nâu đều đặn, 4 góc mái uốn cong hình đuôi rồng nổi rõ dưới nền trời vừa mềm mại vừa uy nghi. Bên trái là khu tháp tổ màu xám trắng loang lổ tuổi rêu phong, xung quanh xào xạc cây xanh bên vài cây cau cao thanh cảnh. Từ nhà Tăng đến dãy nhà khách, nhà thọ trai đều được xây cất với một phong cách rất riêng của kiến trúc Việt Nam khơi lên những cảm xúc từ trong nguyên sơ trở về xa xôi và để lại những cảm xúc mới cho mỗi du khách dù là đến thăm viếng lần đầu, nhưng mỗi lần trở lại càng thấy gần gũi thân quen như vương vấn một nhân duyên kết nối từ thủa nào. Bụi lá trầu không cuốn quýt cây cau xanh ngả chùm quả như muốn níu bàn tay lá trầu. Cây hồng xiêm nặng cành, các loại hoa thơm quanh vườn toả hương bốn mùa. Bên nhà Nghè, cây đa cổ thụ xoè tán rộng. Khi chưa kịp xả lòng vương vấn khung cảnh chùa trở về tánh không thì cái thân đã đến trước bàn thờ Thiền sư Tuệ Tĩnh. Ngài ngồi đó, khuôn mặt vuông vức đức độ, dáng vẻ uy nghi, toàn thân buông lỏng, tất cả toát lên phong thái của một vị thầy thuốc đất Việt có hạnh Bồ Tát lớn lao mà ngưỡng mộ mới thấy tâm và thân mình bé nhỏ làm sao. Ngày nay, bao thế hệ ngành y đã và đang theo hạnh nguyện của Ngài nhưng vẫn chưa thể học hết được những tâm hạnh của Ngài đã thực hiện từ hàng trăm năm trước. Vì một số tài liệu nghiên cứu của Ngài đã bị thất thoát trong thời gian chiến tranh. Những con cháu qua bao thế hệ của Ngài vẫn thừa kế di sản hàng ngàn bài thuốc của Ngài để nghiên cứu và thực hiện chữa bệnh trong nhân gian. Ngài có tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, ra đời trong một gia đình bần nông tại huyện Dạ Cẩm, Hồng Châu (là huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương ngày nay), dưới triều Trần Dụ Tông cuối thế kỷ XIV. Nhưng mới 6 tuổi, cậu bé Nguyễn Bá Tĩnh đã mồ côi cha mẹ, được sư thầy Hải Triều đón về chùa nuôi gọi là Tiểu Huệ, nhưng thường ngày sư thầy và các Phật tử quen thân gọi là Huệ Tĩnh, pháp danh là Tuệ Tĩnh. Sư thầy thấy Tuệ Tĩnh có một đức tính căn bản là thông minh, học giỏi, tướng mạo đĩnh đạc, võ nghệ tinh thông, cặp mắt từ bi như Phật nên đã dạy dỗ, cho học văn, học làm thuốc tại chùa để chữa bệnh cho người nghèo. Năm Tân Mão 1351, ông đỗ Hoàng giáp lúc đó 22 tuổi, được triều đình trọng dụng phong chức Bình Tây tướng quân, đi đánh Chiêm Thành. Nhưng sau đó ông từ quan trở lại nghề ban đầu là làm thuốc và tiếp tục sự nghiệp cho đến hết đời. Quá trình nghiên cứu, Tuệ Tĩnh phát hiện nhiều cây thuốc đưa vào nền y học dân tộc cổ truyền, mục đích nâng cao giá trị cây thuốc Việt Nam và chỉ dùng thuốc của người Việt chữa bệnh cho người Việt. Có duyên sớm đến với Đức Phật, Tuệ Tĩnh thấm nhuần kinh điển của Phật dạy nên rất tu tiến và học làm thuốc rất giỏi. Phát tâm đóng góp sửa chữa và xây dựng 24 ngôi chùa khác, gây dựng các cơ sở khám chữa bệnh tại những ngôi chùa này. Trên 3 thập kỷ nghiên cứu và chữa bệnh bằng thuốc nam, Tuệ Tĩnh đã biên soạn hai bộ sách chuyên về nam dược có tên “Nam dược thần hiệu” và “Hồng Nghĩa y thư” và nhiều cuốn sách về thuốc nam. Những bài thuốc của Tuệ Tĩnh chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo. Là một thầy thuốc giỏi nên năm Giáp Tý (1384), ông được vua Trần cử sang sứ nhà Minh ở Trung Quốc. Tại đây, Tuệ Tĩnh chữa khỏi bệnh cho vợ nhà vua đã được tôn vinh là Đại y Thiền sư và giữ lại không cho về. Sống trên xứ người, ông nhớ quê hương da diết, vẫn giữ tâm đạo y, thực hiện hạnh Bồ Đề của nhà Phật chữa nhiều bệnh nan y cho dân Trung Quốc, và không quên nghĩa vụ của người con đóng góp với nền y học nước nhà, vừa hành nghề chữa bệnh cho dân bản địa ông vừa miệt mài viết sách. Những đề tài nghiên cứu của Tuệ Tĩnh vẫn lưu truyền ở Trung Quốc, cho đến nay vẫn chưa khai thác hết. Và, ngày 15/2 (âm lịch) năm 1400 Đại y Thiền sư Tuệ Tĩnh đã viên tịch tại Giang
Năm 1690 tức gần 300 năm sau trong một lần Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho sang nhà Thanh đã tìm viếng mộ Tuệ Tĩnh thì phát hiện phía sau tấm bia mộ có khắc hàng chữ: “Về sau có ai bên nước sang, nhớ cho hài cốt tôi về quê với”. Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho vô cùng xúc động nên cho dập mẫu bia mang về nước, thuê thợ làm lại và chở về Hải Dương là nơi chôn rau cắt rốn của Đại y Thiền sư Tuệ Tĩnh. Nhân dân vô cùng thương quý và cảm động đã cùng nhau lập miếu thờ, người người, nhà nhà đến lễ lạy và phát triển thành đền thờ. Dân địa phương thường gọi là Đền Bia. Tại tỉnh Hải Dương hiện có ba nơi thờ danh y Tuệ Tĩnh, đó là đền Xưa, đền Bia và chùa Giám, cả ba đều là di tích lịch sử. Ngày 13/2 âm lịch hàng năm, chùa Giám tổ chức lễ hội rước tượng Tuệ Tĩnh rất lớn. Ban lễ nghi lần lượt thực hiện từng phần trong lễ rước: Rước hoa và múa lân rồng, biểu diễn thể thao, rước hồng kỳ, đi sau là đội trống, đội siêu đao – chấp kích – bát bửu, rước kiệu thuốc nam, đoàn tế nam, nối bước là đoàn tế nữ, tiếp theo là đoàn cung nghinh kiệu Tuệ Tĩnh, tượng của Ngài được đặt trên đòn bát cống, có lọng che hai bên rất long trọng, cuối cùng là đoàn Chư Tăng, Chư Ni với Pháp phục và các Phật tử cùng các bô lão và những người con quê hương Hải Dương dù làm ăn ở đâu, học sinh, sinh viên, học ở các tỉnh thành khác, kiều bào các nơi đều nhớ ngày lễ hội về tham dự. Chùa Giám đã đón tiếp hàng chục đoàn khách quốc tế và các vị lãnh đạo Nhà nước Việt Thần y Tuệ Tĩnh không chỉ là niềm tự hào của những người dân Hải Dương mà còn là niềm tự hào của ngành y và của hàng chục triệu người dân Việt Chùa Giám từ hàng trăm năm qua đã nổi tiếng về những nét kiến trúc của ngôi chùa cổ, những giá trị của những bức tượng cổ, những giá trị của hàng ngàn bài thuốc của danh y Tuệ Tĩnh để lại đã tạo nên những kỳ tích của chùa Giám ngày nay.
Bên ngoài là 2 dẫy hành làng có 11 gian thờ Thập bát La Hán. Hậu đường có 7 gian thờ Thiền Sư Tuệ tĩnh và thờ sư tổ.
Ngôi nhà Phẩm
Tháp Cửu Phẩm Liên Hoa
Danh y Tuệ Tĩnh
Cây đa cổ thụ bên nhà Nghè
Đền Bia