Phật giáo VN gắn bó cùng dân tộc, phụng sự nhân sinh

GN - LTS. Tại Hội thảo khoa học “GHPGVN 35 năm hình thành và phát triển” trong khuôn khổ chương trình Đại lễ Kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội tại TP.Hồ Chí Minh, ông Lê Thanh Hải, nguyên UV Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy đã tham dự và có bài tham luận. Ở nội dung của số này, GN trích một phần trong bài tham luận quan trọng đó, trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

---------------

"Ở nước ta, Phật giáo là một tôn giáo được biết sớm nhất, đã hơn 2.000 năm nay, với việc tu tập gần gũi với thiên nhiên, với đại chúng, đời sống tu hành đơn sơ, mộc mạc, giản dị, Phật giáo dễ đi vào cuộc sống của quảng đại cư dân.

Ong Le Thanh Hai.jpg
Ông Lê Thanh Hải và HT.Thích Trí Quảng trong một lần gặp tại Tượng đài Bồ-tát Thích Quảng Đức

Đạo Phật ở Việt Nam mang màu sắc Việt Nam rõ rệt đã dựa trên các điều kiện cụ thể của nước nhà đề hoằng dương Phật pháp, lợi lạc quần sinh và tạo nên một đạo Phật rất Việt Nam gắn bó mật thiết, không thể phân ly trong lòng dân tộc, do sự tương đồng giữa giáo lý “từ bi - hỷ xả”, “cứu khổ, cứu nạn” của Đức Như Lai với tư tưởng, tình cảm và truyền thống nhân văn của người Việt Nam nên đạo Phật đã ăn sâu bám rễ trong tâm tư, tình cảm, lối sống, đạo đức của đông đảo người Việt, luôn gắn bó, đồng cam cộng khổ cùng dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.

Đinh Tiên Hoàng, vị hoàng đế đầu tiên của nước Đại Cồ Việt độc lập tự chủ đã mời Thiền sư Ngô Chân Lưu làm cố vấn trong công việc trị quốc. Để tỏ niềm tôn kính và đánh giá đúng công lao, vua đã ban hiệu “Khuông Việt đại sư” cho Ngài. Hình ảnh Thiền sư Đỗ Pháp Thuận cải dạng thành người lái đò để tiếp sứ thần nhà Tống thật khó phai mờ trong lòng người hậu thế, một hình ảnh đẹp, một sự hy sinh lớn, một minh chứng cho tấm lòng vì nước, vì dân.

Thời nhà Lý cũng đã có nhiều bậc cao tăng đứng ra cùng vua chung lo gánh vác việc nước như Thiền sư Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Thông Biện, Viên Thông, Không Lộ,… Đặc biệt, mỗi lần lật lại trang sử vẻ vang của thời Trần, chúng ta thật cảm động và khâm phục các vua Trần đã đoàn kết toàn dân, vua tôi hòa hợp, quyết tâm bảo vệ giang sơn cẩm tú, ba lần đánh tan quân Nguyên xâm lược. Một Trần Thái Tông anh minh và đức hạnh, hành xử viên dung cả đời lẫn đạo; một Tuệ Trung thượng sĩ với tâm hồn siêu thoát đã hòa mình trong cuộc đời và Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông, một anh hùng dân tộc, nhà văn hóa lớn, đồng thời là người khai sáng phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, thiền phái mang đậm bản sắc của Phật giáo Việt Nam. Nhiều vị vua, quan thời Lý, thời Trần am hiểu sâu sắc Phật pháp, đã chuyển hóa tư tưởng, triết lý sống của Phật giáo để dựng đạo, xây đời tốt đẹp. Đạo Phật trở thành một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của bản sắc văn hóa Việt Nam; sau lũy tre làng luôn ẩn hiện những ngôi chùa vừa uy nghiêm, vừa gần gũi, một hiện hữu không thể thiếu trong cộng đồng làng xã Việt Nam.

Trước Cách mạng Tháng 8, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, Phật giáo Việt Nam lại tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, hòa mình và gắn bó chặt chẽ với dân tộc. Nhiều ngôi chùa là cơ sở của cách mạng, nuôi giấu cán bộ, nơi tổ chức hội họp bí mật, cất trữ vũ khí, biến thành trường học, nơi cứu tế người nghèo; nhiều Tăng, Ni tạm thời rời bỏ thiền môn, trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng như Hòa thượng Thiện Chiếu, Hòa thượng Thích Minh Nguyệt, Hòa thượng Thích Thiện Hào,… Trong lúc đất nước lâm nguy, Hòa thượng Thích Thế Long ở chùa Cổ Lễ (Nam Định), đã một lúc làm lễ “cởi áo cà-sa, khoác chiến bào” cho 27 vị tu sĩ Phật giáo trở thành những chiến sĩ cách mạng.

Tháng 6 năm 1963, Bồ-tát Thích Quảng Đức đã tự thiêu cùng với sự hy sinh phi danh lợi của Tăng Ni và Phật tử miền Nam, miền Trung chống độc tài, áp bức, đòi tự do tôn giáo, độc lập dân tộc. Hành động vô úy của Bồ-tát Thích Quảng Đức đã làm rung chuyển lương tâm của loài người tiến bộ, thức tỉnh lòng người ủng hộ chính nghĩa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết về sự hy sinh của Bồ-tát Thích Quảng Đức: “Vị Pháp thiêu thân, vạn cổ hùng uy thiên nhật nguyệt/ Lưu danh thiên cổ, bách niên chính khí rạng sơn hà”.

Hình ảnh các vị cao tăng đáp ứng tiếng gọi thiêng liêng của Đảng, của Bác Hồ kính yêu, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, sát cánh cùng toàn dân đánh giặc, cứu nước đã tô thắm thêm màu cờ của Tổ quốc. Toàn thể Tăng Ni và đồng bào Phật tử Việt Nam ghi lòng tạc dạ lời dạy của Bác Hồ, nhận thúc rằng “lý tưởng giải thoát của người tu hành không thể tách rời sự nghiệp giải phóng dân tộc, do Hồ Chủ tịch và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”(*) . Trong lao động sản xuất, thực hiện nếp sống đạo đức văn hóa, nhiều quý vị Tăng Ni, Phật tử đã trở thành những người tiêu biểu, gương mẫu, làm chỗ dựa đáng tin cậy trong khối đại đoàn kết toàn dân,… đó là những minh chứng cho tinh thần yêu nước chân chính của Phật giáo Việt Nam trong dòng chảy lịch sử của dân tộc.

Trong niềm hân hoan vô hạn về độc lập, hoà bình, thống nhất của cả dân tộc, những người con Phật Việt Nam luôn ước nguyện riêng, ước mơ ấp ủ từ bao đời về xây dựng một Giáo hội Phật giáo chung trong cả nước nhằm gắn kết, thống nhất tất cả các hệ phái Phật giáo Việt Nam theo cùng một ý chí, một hiến chương, chương trình hành động, trong cùng một cơ cấu tổ chức và lãnh đạo, nhằm mục đích chung là duy trì Chánh pháp, đề cao chánh tín, thành khối đoàn kết chặt chẽ trong khối đại đoàn kết dân tộc.

Tâm nguyện này của Tăng Ni, Phật tử cả nước xuất phát từ lý tưởng giác ngộ “chân lý hòa hợp chúng sinh, hòa bình và công bằng xã hội” của giáo lý Đức Phật, nhằm phục vụ dân tộc, Tổ quốc và nhân loại. Những ước nguyện của các vị chư tôn, giáo phẩm trong các hệ phái đã trở thành hiện thực khi tất cả đều đồng tâm, đồng sức xây dựng Giáo hội duy nhất của đất nước Việt Nam độc lập, hòa bình là Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Cơ duyên đó được bắt đầu từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 02 năm 1980, tại thành phố Hồ Chí Minh, các chư tôn, giáo phẩm, cùng hàng ngàn nhân sĩ Phật tử tiêu biểu ba miền Bắc - Trung - Nam đã gặp mặt để bày tỏ thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức, đi đến quyết định thành lập Ban Vận động Thống nhất Phật giáo do Hoà thượng Thích Trí Thủ làm Trưởng ban. Thành viên Ban Vận động Thống nhất Phật giáo gồm 9 tổ chức, hệ phái Phật giáo trong cả nước. Từ ngày 04 đến ngày 07 tháng 11 năm 1981, tại Thủ đô Hà Nội, 165 đại biểu của 9 tổ chức, hệ phái Phật giáo đã cùng dự Hội nghị và nhất trí thành lập một Giáo hội Phật giáo chung thống nhất trong cả nước.

Sự thống nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một sự kiện lịch sử, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử Phật giáo nước nhà, nhằm tiếp tục thực hiện sứ mệnh tiếp nối truyền thống vẻ vang của hơn 2.000 năm. Hội nghị đã xác định rõ: Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức Phật giáo duy nhất đại diện cho Phật giáo Việt Nam về mọi mặt quan hệ ở trong nước và nước ngoài. Sự đoàn kết, thống nhất các tổ chức, hệ phái của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là sự nối tiếp lịch sử yêu nước, gắn bó cùng dân tộc của  Tăng Ni, Phật tử cả nước. Với phương châm hoạt động “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, đây là sự lựa chọn đúng đắn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thể hiện tinh thần tiếp tục gắn bó, hòa mình cùng dân tộc để thực hiện mục tiêu “tốt đời, đẹp đạo”, thực hiện chính sách nhất quán, trước sau như một của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo” (...).

Lê Thanh Hải
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy TP.Hồ Chí Minh

______________

(*) Tâm thư của Hội nghị đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam kính gửi Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trường Chinh, do Hòa thượng Thích Trí Thủ thay mặt Đoàn Chủ tịch Hội nghị ký.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Đi chùa giúp tâm an tịnh - Ảnh minh họa

Một ngày mặc chiếc áo lam

GNO - Ông Hai lắng tai nghe tiếng ồn ào từ nhà ông Tư vọng sang. Nhà ông Tư từ hồi nào đến giờ có khi nào vợ chồng to tiếng đâu, hôm nay bỗng dưng có tiếng cãi vã lẫn tiếng bát đĩa vỡ nữa mới lạ chứ?

Thông tin hàng ngày