Thánh tích “Bồ Đề Đạo Tràng”

Thánh tích “Bồ Đề Đạo Tràng”
Ngày nay, Bồ Đề Đạo Tràng là nơi thu hút giới Phật giáo và các phái đoàn hành hương đến chiêm bái quanh năm. Như một điều kỳ diệu, Bồ Đề Đạo Tràng, một ngôi làng tầm thường, cổ xưa đã được chuyển hóa trong chốc lát. Giờ đây, Bồ Đề Đạo Tràng đang hoạt động mạnh mẽ trong đời sống, và một lần nữa, Bồ Đề Đạo Tràng có triển vọng sẽ là một trung tâm của Phật giáo thế giới. Nhân mùa Phật đản PL 2549 - 2005, xin giới thiệu đến quý độc giả nghiên cứu của tiến sĩ A.D.T.E Perera về thánh tích này.

Thánh tích “Bồ Đề Đạo   Tràng” (Buddhagayã hay   còn gọi là Bodhgayã) là địa danh chỉ cho nơi Đức Phật chứng đạt quả vị giác ngộ tối thượng (Sambodhi). Buddhagayà cách thị trấn Gaya cũ sáu dặm về phía Bắc, ngày nay cũng được biết với tên Brahmagayà, nơi chiêm bái của tín đồ Ấn giáo (Hinduism). Có lẽ tín đồ Ấn giáo đã thêm thuật ngữ ‘Brahma’ vào địa danh của thánh tích này để phân biệt với Buddhagayà, thánh tích của Phật giáo.

Buddhagaya bây giờ là một thị trấn thịnh vượng, phía Bắc giáp với Haripur, phía Đông giáp với Mastipur, Dhondowa, Bhalua and Turi, phía Nam giáp với Rampur và phía đông giáp với dòng sông Lilajan. Đây là một hình thức biến thái xuất phát từ Pàli cổ: Vera-ja, Nera-ja = Sanskrit: Naira-jana; Hán Việt: Ni Liên Thuyền.

Từ ‘Buddhagayã không có mặt trong các văn bản Phật giáo thời kỳ đầu. Tuy nhiên trong các văn bản này, người ta tìm thây một số thuật ngữ tương tự như Bodhimandala (Đạo tràng), Bodhirukkha (cội bồ đề), Gayà (địa danh nơi Đức Phật thành đạo), Gayãsĩsa (núi Đầu Voi) chỉ cho nơi Đức Phật chứng quả Giác ngộ.  Thuật ngữ này chỉ xuất hiện đầu tiên trong bản ngụy tác của Amaradeva.

Một vài thuật ngữ có lẽ đã được sử dụng để chỉ cho cội bồ đề thiêng, ví dụ như Bodhimanda, v.v... đã có ảnh hưởng đến tên của đồng tiền như Buddhagayà, Bodhigayà, Bodhgayà. Anagàrika Dharmapala vị điều hành Phật giáo Sri Lanka, và cũng là vị đã đấu tranh giành lại Buddhagayà từ tổ chức Ấn giáo (Mahant) đã để lại lời giải thích đáng lưu ý trong ký sự của ông về Thánh tích này:

Bodhimanda là thuật ngữ được dùng trong tín đồ Phật giáo ngày trước, và dựa theo Đại sử (Mahavamsa), nơi này được gọi tên Gayà. Trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Marga), địa danh này cũng được gọi là Gayà. Ngài Pháp Hiển cũng viết là Buddha Gayà, và ngài Phật Âm (Buddhaghosa) đến Sri Lanka năm 412 TL, thuộc triều đại Mahanama, cũng gọi là Gaya. Thuật ngữ Brahmayoni thay cho Gayà Sàrsa được gọi rất phổ thông trong thời ngài Pháp Hiển đến Ấn và ngài đã sử dụng thuật ngữ này trên suôt lộ trình chiêm bái của ngài. Có thể thuật ngữ này bắt đầu được dùng vào thế kỷ II sau TL. Thuật ngữ Phật giáo Boddhimà cũng có thể được dùng phổ biến trong quần chúng, thế nên thuật ngữ Buddhagayà phải được công nhận. (A. Guruge, Trở về nẻo chánh [Return to Righteousness], Ceylon, 1965, tr. 587).

Thánh địa Buddhagayà, nơi Đức Phật chứng quả giác ngộ tối thượng vang tiếng từ thuở xa xưa. Ngoài các tham khảo trong kinh điển Phật giáo, bằng chứng của khảo cổ học cho thấy lịch sử của thánh địa Buddhagayà xuất hiện trước kỷ nguyên Tây lịch. Bằng chứng trước tiên là những bia đá của hoàng đế Asoka. Trên bia đá thứ VIII, vua Asoka đã đề cập đến cuộc chiêm bái của Ngài đến Thánh địa ‘Sambodhi’ nghĩa là Buddhagayà.

Mặc dù ngài Pháp Hiển nói rõ thành phố Gayà đã bị tàn phá và đổ nát, chuyến viếng thăm Bodhi (Peito) của ngài đã cho biết nơi này có nhiều quần thể tháp (stupas). Hơn thế nữa, Ngài còn cho biết có ba tu viện  (Saghàràma) làm chỗ cư trú cho chư Tăng Phật giáo chuyên trì giới luật.

Ngài Huyền Trang (khoảng 629 TL) đã để lại cho chúng ta một sơ đồ về Buddhagayà ghi lại toàn bộ bằng chứng một quá khứ vàng son của Thánh địa này. Tài liệu bút ký của ngài thật quan trọng khi chúng ta đối chiếu với các khai quật gần đây của A. Cunningham vào thế kỷ XIX.

Khi đề cập đến những di tích còn sót lại của thành phố Gayà, ngài Huyền Trang có nhắc đến cội bồ đề thiêng. Có một bức thành cao, dốc đứng và chắc chắn bao bọc xung quanh cội bồ đề này. Chiều dài bức thành dài từ Đông sang Tây và chiều rộng từ Bắc đến Nam. Cổng chính xoay ở hướng Đông đối diện với dòng sông Naira-jana.  Cổng phía Nam nối với một dải hoa rộng lớn. Phía Tây có nhiều chướng ngại nên đi lại khó khăn. Cổng phía Bắc hướng về tu viện lớn.

Chính giữa hàng rào bao bọc cội bồ đề là một tòa kim cang.  Ngài Huyền Trang viết thêm về các chùa tháp xung quanh Buddhagayà, trước tiên là Đại tháp Bồ Đề (Mahàbodhi), khu vườn Đức Phật đi thiền hành, hồ tắm, nơi Đức Phật nhận bát cháo sữa của nàng Sujàtà, và nhiều nơi thiêng liêng khác.  Ngài còn ghi thêm ngôi chùa nổi tiếng bên ngoài thành phía Bắc của tháp Buddhagayà.

I. Cội bồ đề

Cội bồ đề thiêng (tên khoa học là Ficus religiosa) là điểm thu hút nhất tại Buddhagayà tồn tại mãi cho đến cuối thế kỷ XIX, sau đó nó bị khô và cuối cùng chết đi. Cội bồ đề hiện nay không phải là cội bồ đề ngay nơi Đức Phật thành đạo mà chỉ là một nhánh của cội bồ đề ấy.

Do sự nới rộng về diện tích của điện thờ do vua Asoka thiết lập, vị trí của cội bồ đề cũng bị thay đổi. Hơn nữa, có một vài khảo cứu cho thấy sự hủy hoại của cội bồ đề có liên hệ đến trước nhất là đại đế Asoka, kế đó là Hoàng hậu...

II. Điện thờ do Đại đế Asoka xây dựng

Một trong những đối tượng chính cho việc phụng thờ tại Buddhagayà là cội bồ đề. Cội bồ đề thiêng liêng này được một bức tường bao xung quanh môt cách tự nhiên. Ngài Huyền Trang có đề cập đến việc vua Asoka xây điện thờ cội bồ đề. Mặc dù bây giờ không còn thấy một dấu tích nào của điện thờ, chúng ta có thể thấy được hình dáng điện thờ Asoka xây từ hình ảnh điện thờ cội bồ đề qua các bức phù điêu ở tháp Bhàrhut. Ở đây những bản khắc bằng Brahmi giúp chúng ta nhận dạng được điện thờ như là hình dáng điện thờ cội bồ đề của Đức Phật Thích Ca. Những tác phẩm điêu khắc Bhàrhut phác họa cấu trúc tháp xây dựng xung quanh cội bồ đề với cổng đi vào từ phía. Mô hình tháp thiết trí xoay quanh cội bồ đề này không được xây phổ biến ở những nơi thánh tích Phật giáo. 

Trong khi sửa chữa nền tháp hiện nay, Cunningham đã phát hiện ra ở dưới móng của công trình kiến trúc sau này còn lưu lại một vài bức tường cũ và nửa phiến đá tròn ở tại lối ra vào. Mô hình này không có gì khác so với công trình của tháp thời Asoka trước đây. Điều này được minh chứng từ việc khám phá hai chiếc ghế đá dưới nền tháp hiện nay, môt chiếc được làm bằng sa thạch  nhẵn bóng cùng với bốn trụ tường đặt phía trước, (nó được mô phỏng hoàn toàn giống như kiểu cách của bức phù điêu ở Bhàrhut). Cunningham tin tưởng phiến sa thạch nhẵn bóng có thể là tòa Kim Cang (Vajràsana) của Đức Phật thuở trước. Không biết đó có phải là toà Kim Cang nguyên thủy hay là lớp ngoài của tòa sau này hay không, chắc chắn rằng Cunningham đã khám phá chính xác nơi Asoka xây dựng điện thờ quanh nơi côi bồ đề và để che cho tòa Kim Cang.

III. Bảo tòa Kim Cang

Hiện nay, tòa Kim Cang đã được tìm thấy đằng sau bức tường thành phía Tây của Đại tháp Bồ Đề được xem như là kiểu mẫu trên bề mặt phiến đá của tòa Kim Cang cổ bên trong nội điện. Tòa Kim Cang được tạo từ một loại đá xám, dài khoảng 4.6m; bề rộng 3m và dày khoảng 1.52m. Bề mặt phiến đá được khắc những dạng hình học, tất cả 4 mặt ngoài đều được khắc chạm hết sức công phu hoàn hảo. Việc khám phá nền móng của tháp cổ nhất bên dưới nền của Đại tháp hiện nay cùng với hai phiến đá nằm chính giữa nền tháp cổ giúp chúng ta có thể tin rằng phiến đá hoa văn và những bệ gạch đã có mặt cách nay quá lâu kể từ sau khi công trình kiến tạo Đại tháp Bồ Đề sau Tây lịch nhiều thế kỷ dưới triều đại vua Kusàna.  Vấn đề này còn được  xác định qua  bi ký được khắc trên rìa phiến đá thời vua Kasàna.

IV. Cakamana, con đường thiền hành cua Đức Phật

Ngài Huyền Trang nói rằng về hướng Bắc của cội bồ đề có dấu tích nơi Đức Phật thường kinh hành sau khi đạt ngộ. Đức Phật đã bước chừng khoảng mười bước chân từ Đông sang Tây, những đóa hoa kỳ diệu xuất hiện dưới dấu chân Ngài có đến mười tám đóa hoa. Sau đó nơi này bị bức tường gạch cao khoảng 90cm che lấp lên.

Cunningham khi viếng thăm Buddhagayà vào năm 1879, đã tìm ra những dấu vết còn sót lại của hành lang cùng với 22 trụ đá nền vẫn còn ở Situ. Điện thờ nơi con đường thiền hành này nằm về hướng Bắc điện thờ cội bồ đề. Cùng với việc xây dựng Đại tháp Bồ Đề lên trên điện thờ cội bồ đề cũ của vua Asoka, điện thờ tưởng niệm con đường thiền hành cũng bị phủ lấp dưới bờ tường phía Bắc của Đại tháp. Con đường hành lang được phát hiện trong vị trí này khi Cunningham tìm thấy hàng trụ đá nền xuất hiện một phần ở phía Nam, một số ít trụ chống không thẳng hàng đã bị lấp dưới nền Đại tháp.

V. Rào chắn

Trong các di tích tại Buddhagayà, có một hàng rào bằng đá bao quanh hết các điểm.  Có lẽ ngày nay nó không giữ được vị trí ban sơ của nó nữa. Các học giả nổi tiếng tin rằng bức rào này bao quanh điện thờ của Asoka, toà Kim Cang và cội bồ đề. Do cội bồ đề cũ bị biến mất nên bức rào này cũng bị xê dịch so với vị trí ban đầu và bây giờ qua nhiều biến đổi, những người xây dựng Đại tháp hoặc những người sửa chữa sau này đã đặt hàng rào ở một vị trí cố định.

Những trụ đá và thanh ngang của hàng rào chạm khắc nhiều hình ảnh về thời kỳ đầu phát triển của nghệ thuật Phật giáo. Trong các bức điêu khắc trên trụ đá, có hai bức quan trọng nhất, một bức khắc hình vua Đế Thích trong hình thức của Brahmin Sànti và bức kia khắc hình thần Mặt trời cưỡi trên lưng ngựa. Trong số những bức điêu khắc nhỏ hơn trong hình trái tim hoặc nửa trái tim được tìm thây những tranh minh họa Yakkhà Assamukhà (phi nhân), cảnh mua đất ở vườn Kỳ Đà (Jetavana), Indrasàla guhà (hang động trên núi Vediya, có một thời gian Đức Phật trú ở đây và thuyết bài kinh Đế Thích Sơ Vấn), Chaddanta Jàtaka (chuyện tiền thân Bồ tát khi còn làm voi chúa), Màtuposaka Jàtaka (chuyện kể tiền thân của Bồ tát làm thân voi nuôi dưỡng voi mẹ mù trên núi tuyết Himalaya), Padakusalamànava Jàtaka (chuyện hoàng hậu của vua nước Ba La Nại vì quên lời thề đã trở thành thần mặt ngựa) và nhiều cảnh khác xen lẫn các tranh hình đôi nam nữ tình tứ Mithuna cũng như phong cách Gajalakmà và tháp theo dáng Ba ngôi báu.  Cùng với các di tích điêu khắc cổ kính này, những hàng rào cổ xưa nhất được chứng minh bởi mẫu viết rời rạc khắc trên mái tường và nhiều trụ đá. 

VI. Tháp Đại Giác

Công trình kiến trúc vĩ đại và quan trọng nhất  tại Buddhagayà phải công nhận là tháp Đại Giác. Nối tiếp với các di tích của thời vua Asoka (song chắn bằng đá), chính đây là tháp cổ xưa nhất tại Buddhagayà.

Khảo cứu của ngài Pháp Hiển về các tháp được tạo dựng ở đây và nhiều khám phá hiện nay về quần thể tháp có dạng tương tự như vậy (như tháp được tìm thấy ở Peshawar và ở các vùng quanh Gandhàra, các tháp ở Nàlandà, phiến đồng (điêu khắc hình dáng) Bodhgayà được tìm thấy ở vùng Kumrahar, Patnà) cho thấy các tháp có hình dáng này rất có thể được xây dựng sớm vào thế kỷ II TL. Điều này nói lên các tháp lớn tồn tại cho đến ngày nay là lối  kiến trúc sau này được xây dựng trên dấu vết điện thờ cội bồ đề của Đức Phật Thích Ca do vua Asoka khởi công tôn tạo từ trước.

Đại tháp đã được trùng tu nhiều lần và gần đây nhất vào thập niên cuối của thế kỷ XIX, phái đoàn người Myanmar do vua Kyanzitha phái sang.  Theo sự mô tả của ngài Huyền Trang thì cấu trúc, vóc dáng của tháp ngày nay đã có mặt vào thế kỷ VII TL. Chiều cao của tháp hiện nay khoảng 51m, gồm chín tầng xây theo hình chóp đứng.  Cấu trúc chính được nổi bật nhờ vào vòm tháp và trên nền tháp chính có tháp nhỏ ở bốn gốc, một bức họa hình tháp chính thu nhỏ. Các hốc tường tháp đều được chạm khắc hình Phật và các hình tượng  Bồ tát, thần linh theo truyền thống Đại thừa.  Trong nhiều thế kỷ sau, Đại tháp Bồ Đề  được xem như mẫu lý tưởng về kiến trúc chùa tháp Phât giáo cho các nước ngoài Ấn Độ.

VII. Quần thể tháp trong khuôn viên Đại tháp

Trong mảnh đất hình chữ nhật rào kín quanh Đại tháp còn có vô số di tích thuộc về kiến trúc, những bức phù điêu tuyệt mỹ và được trang hoàng băng những tháp tưởng niệm, đa dạng nằm rải rác xung quanh Đại tháp liên tục cuốn hút khách hành hương chiêm bái. Ngài Huyền Trang có ghi lại rằng: “trong vòng bờ thành, những dấu vết thiêng liêng nối liền với nhau khắp mọi hướng, đó đây đều là tháp, kế tiếp là tịnh xá. Các vị vua, hoàng tử, quý tộc ở khắp mọi nơi (Jambudvàpa), những vị  tiếp thọ giáo pháp vô song của Đức Phật đã xây dựng các bia tưởng niệm này”. Một khám phá duy nhất của Cunningham trong khoảng đất này là những mảnh vỡ của một cổng ra vào hiện nay đang trùng tu. Cunningham đã nhận diện nhầm  đây là bức hình Phật, Pháp, Tăng và gọi là biểu tượng Tam bảo. Tấm bảng đồng này có thể là một biêu tượng tượng trưng của Phật giáo Đại thừa mô tả Đức Phật và bên cạnh có chư vị Bồ tát đứng hầu. Ngài Huyền Trang cũng nhắc đến những hóa thân của Bồ tát Quan Thế Âm (Avalokitesvara) phía bên trong Đại tháp.

VIII. Các tu viên (Saghàràmà)

Bằng chứng văn học sớm nhất bàn về sự hiện hữu của tu viện lớn tại Buddhagayà được tìm thấy trong quyển ký sự của ngài Pháp Hiển. Ngài đã đề cập có ba tu viện, nơi cư trú của các vị Tỳ kheo tu tập chuyên chú vào giới luật (Vinaya). Trở lại ký sự của ngài Huyền Trang, trong đó có ghi lại bức tranh thật và chính xác đáng tin cậy về tu viện. “Bên ngoài cổng phía Bắc của tường thành bao bọc cội bồ đề là tu viện Đại Bồ Đề (Mahàbodhi). Tu viện này do vua Simhala người Sri Lanka xây dựng. Tu viện có sáu phòng lớn cùng với nhiều  tháp  nhỏ để tu quán ở ba tầng lầu. Bức tường thành bao quanh cao khoảng 9 đến 12 mét.  Các họa sĩ khéo tay nhất được mời đến vẽ, trang hoàng với nhiều màu sắc lộng lẫy”.

Mặc dù tu viện lớn này không còn nữa, nhưng nền và nhiều di tích khác của móng đã được Cunningham khám phá vào năm 1885 và những di tích này hoàn toàn phù hợp với cách mô tả trong các bút ký.

Việc xây dựng tu viện được cho là do một vị vua người Sri Lanka. Hai bia ký ghi bằng chữ Sanskrit cho chúng ta biết về vị Tỳ kheo tên Mahànàma từ Sri Lanka đã cúng dường một tượng Phật và thiết tạo một dãy lầu (pràsàda) tại vùng đất này. Ngài Huyền Trang cũng có tường thuật lại bia ký của vị Tỳ kheo người Sri Lanka (S. Beal, sđd, tập III, tr. 357). Điều này ăn khớp với tác phẩm viết về các bia ký của Mahànàma tái phát hiện, ủng hộ để chứng minh việc xác định  đại tinh xá và đồng thời minh chứng chính xác các ký sự của các nhà chiêm bái Trung Quốc.

Theo tường thuật trong tác phẩm Hing- tchoan of Wang Hiuen-tse, ở Trung Quốc có hai vị Tỳ kheo được vua Sri Lanka Chi-mi-kia-po-ma (Sirimeghavanna, khoảng 301 TL) phái đi hành hương về nơi cội bồ đề thiêng, đã tâu trình với vua nỗi khó khăn vô cùng trên đường đi; họ phải chịu đựng vì sự thiếu thốn nơi trú chân thích hợp ơ những vùng lân cận. Vì vậy, sử liệu nói rằng, nhà vua đã cử một biệt phái và đem các phẩm vật dâng đến hoàng đế Samudragupta thuộc vương triều Gupta, trình bày và xin được phép cất một tu viện ở đó. Điều thỉnh cầu này được chuẩn y ngay, lúc ấy Wang-Hiuen-tse đã đến viếng nơi này và tu viện là nơi trú ngụ của khách hành hương. 

Buddhgayà thịnh vượng như một trung tâm thu hút nhiều Phật tử khắp nơi trên thế giới, cho đến thế kỷ XIII TL thì bị quân xâm lược Hồi giáo hủy hoại, cướp phá. Chính những kẻ xâm lược này đã phá huỷ hết tất cả những trung tâm thờ phụng kể cả Ấn Độ giáo và Phật giáo tại Ấn Độ. Qua nhiều thế kỷ, Buddhagayà chìm trong quên lãng; mãi đến thế kỷ XVIII, nơi này được vài tín đồ Ấn giáo (Saivite Mahants) coi giữ.

Khi Cunningham phát hiện ra thánh địa này vào thế kỷ XIX, Buddhagayà trong tình cảnh suy sụp hơn, và từ đó, ông bắt đầu khôi phục lại nơi này.

Vào khoảng năm 1885, ông Edwin Arnold, tác giả của quyển sách nổi tiếng  "Ánh sáng Á châu” [The Light of Asia], có viết một số bài báo trong tạp chí The Telegraph, một tạp chí xuất bản định kỳ ở Anh do chính ông làm chủ bút, đã gây được sự chú ý đến vùng đất tháp và những di tích tại Buddhgayà bị lãng quên. Những bài báo này đã đập mạnh vào đôi mắt của Anagàrika Dharmapàla và kích động mãnh liệt đến người, sau đó người đã phát động cuộc đấu tranh giành lại Buddhagayà cho tín đồ Phật giáo. Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc khôi phục lại tháp Đại Giác. Để thực hiện những quyết định của mình, Anagàrika Dharmapàla đã lên đường sang Ấn Độ và lần đầu tiên viếng thăm Buddhagayà vào tháng 1 năm 1891. Ngài thật đau lòng khi nhìn thấy khung cảnh chùa tháp và tượng Phật ở đây. Ngài trở về Sri Lanka  vào tháng 5 năm 1891 và thành lập “Hội Đại Giác” (Mahà Bodhi Society) ở Colombo. Dưới sự bảo trợ của hội này, một hội nghị quốc tế được tổ chức tại Buddhagayà. Mục đích của hội nghị này là để gây sự chú ý của giới Phật giáo đối với những vấn đề tại Buddhag+ayà vì hội nghị thấy rõ rằng phong trào khôi phục lại chùa tháp do Mahà Bodhi Society khởi xướng sẽ không thể thành công nếu không có sự ủng hộ và hợp tác của Phật giáo thế giới.  Một trang sử mới mở ra cho Buddhgayà cùng với buổi đầu tự do của Ấn Độ. Cuộc tranh chấp với tín đồ Ấn giáo xảy ra không ngớt khi Mahà Bodhi Society đưa ra những yêu cầu nhưng không được kết quả gì. Bấy giờ chính quyền Bihar đã đến dàn xếp cuộc tranh chấp này và thông qua Đạo luật về chùa tháp tại Buddhagayà năm 1949. Theo đạo luật này, một ủy ban, cũng gọi là Ủy ban Quản lý Tháp tại Buddhagayà, bao gồm bốn tín đồ Phật giáo và bốn tín đồ Ấn Độ giáo được thành lập. Ủy ban được giao phó trông nom và điều chỉnh lại chùa tháp. Vì vậy, sau sáu năm tranh đấu gian khổ, Mahà Bodhi Society đã thành công phần nào trong những mục đích chính yếu là khôi phục lại chùa tháp cho tín đồ Phật giáo.

Ngày nay, Buddhagayà là nơi thu hút giới Phật giáo và các phái đoàn hành hương đến viếng thăm quanh năm. Như một điều kỳ diệu, Buddhagayà, một ngôi làng tầm thường, cổ xưa đã được chuyển hóa trong chốc lát. Giờ đây, Buddhgayà đang hoạt động mạnh mẽ trong đời sống, và một lần nữa, Buddhagayà có triển vọng sẽ là một trung tâm của Phật giáo thế giới.

Tiến sĩ A.D.T.E. PERERA -
T.N. LIÊN HÒA dịch

[Dịch từ Từ điển Bách khoa Phật học (Encyclopaedia of Buddhism), tập III, do giáo sư G.P. Malalasekera làm Tổng Biên tập. Ceylon: The Government Press, 1971, trang 399-404]


1 S. Beal, Ký sự về Ấn Độ của người Trung Quốc [Chinese Accounts of India], Si-yu-ki, ấn bản tại Ấn, Calcutta, 1959, tập II, tr. 343, ghi chú 61; T. Bolth, Ghi chú về Bodha Gaya [Notes on Bodha Gaya],  Nghiên cứu khảo cổ Ấn Độ, Bản Tường trình hàng năm [Archaeological Survey of India, Annual Report]. Xb. 1908 - 09, tr.139, ghi chú 1)
2 Xem: Rajendralàla Mitra, Buddhagayà, Calcutta, 1878, tr. 2).
3 Luật tạng, tập I, tr. 1,8,34,35; Tăng Chi Bộ kinh IV, tr.302 vctkt; Tương Ưng Bộ Kinh IV, tr. 19 vctkt.; Truyện Tiền thân Đức Phật. I. tr. 182; Đại Phẩm. XVII, phẩm 47; xx, kệ 1; xxix, kệ 41.
4 Xem. N. K. Sahu, Phật giáo ở Orissa, [Buddhism in Orissa], Uktal, 1958, tr. 5.
5 B. M. Barua, Các bia ký của Asoka [Insciptions of Asoka], University of Calcutta, 1943, tr. 186; R. Basakva, Bia ký Asoka [Asoka Inscriptions], Calcutta, 1959, tr. 42. Sự việc này được nhắc đến trong Đại sử (Mahàvaịsa, chương XVII, tập 47), và trong ký sự của những nhà chiêm bái Phật giáo Trung Quốc: Pháp Hiển và Huyền Tráng (S. Beal, sđd, tập I, tr. 41; tập III, tr. 346-347). Tại Sàcà, phần dưới cùng của rầm đỡ cổng ra vào phía Đông mô tả cuộc viếng thăm của vua Asoka đến cội bồ đề (B. Bewland,  Nghê thuật và kiến trúc Ấn Độ [The Art and Architecture of India], London, 1953, hmh. 21; Từ điển Bách khoa Phật học, tập II, hmh. XV).
6 S. Beal, sđd. tr. 19.
7 Vajràsana: Xem tập III, hmh. XXI.
8 Sđd, tr. 350  vctkt.
9 S. Beal, Sđd, tập III. tr. 343 - 60.   Ngoài ký sự của ngài Pháp Hiển và ngài Huyền Trang ra, bằng chứng những câu khắc trên bia ký đã làm tăng sức thuyết phục rằng vùng đất này là điểm hướng đến chung cho những nhà chiêm bái từ Sri Lanka, Trung Quốc, v.v..., từ thời đại lâu xa, có lẽ từ trước TL, (Nghiên cứu khảo cổ Ấn Độ, 1908-09; tr. 155 vctkt; Tạp chí Hội Hoàng Gia Á Châu của Anh và Ireland [Journal of the Royal Asiatic Society of Great Britian and Ireland] (bộ mới), 1880-81, tr. 552-553). Những ký sự khác trên bản khắc được tìm thấy đã chứng tỏ những cuộc viếng thăm của các nhà chiêm bái từ khắp nơi ngoài Ấn Độ trong những giai đoạn kế tiếp đi đến miền đất này  (Barua, Gaya and Budhagaya, Calcutta, 1931, tr. 186 vctkt; Beal, sđd, tr. 358-359; A. Cunningham, sđd, tr. 58-59; Fleet, CII. III. tr. 277 vctkt.).
10 Xem hmh. LVII: Cunningham, Mahabodhi, London, 1892, tr. 30 vctkt; Đông Ấn [Eastern India], I, tr. 76.
11 Cunningham, ctsđd.; S. Beal. Sđd, tập III, tr. 546. Trong khi thực hiện các khảo quật, Cunningham khám phá ra hai mảnh cây lớn ở phía dưới phần tháp Budhagayà thêm sau này. Ông tin rằng những mảnh này là của cội bồ đề do vua Sasàska, (thuộc triều đại Gauàa?) hủy hoại (Cunningham, sđd, tr. 31)
12 Xem tập III, hmh. XXXIII và các hmh. XX & LIV: dưới tiêu đề BHÀRHUT; A. Cunningham, Tháp Bhàrhut [The Stupa of Bhàrhut], ấn bản mới, Ấn Độ, 1962, hmh. XXX; A. K. Coomaraswamy, Nghệ thuật điêu khắc tại Bhohgaya [La Sculpture de Bodhgaya], Paris, 1935, hmh. LX.
13 A. K. Coomaraswamy, Lịch sử nghệ thuật Ấn Độ và Indonesia [History of Indian and Indonesian Art], New York, 1965, tr.33, các hình 46, 55, 70. Bodhighara, thuật ngữ chỉ các điện thờ trong các văn bản đầu tiên. Đại sư đề cập một điện thờ cội bồ đề thiêng tại Anuràdhapura (Mahafàvaịsa, chương XXXVI, kệ 103, 126). Có lẽ Bodhighara này mô phỏng theo tháp cổ được xây dựng tại Bodhagayà. Mặc dù, những dấu vết của những bằng chứng về chữ khắc và lối kiến trúc được tìm thấy University of Ceylon Review, tập XVI, 1958, tr. 1-5) vẫn còn tại Bodhagayà, mẫu điển hình duy nhất về Bodhighara hầu như còn giữ nguyên vẹn lối kiến trúc cua giai đoạn ban đầu (thế kỷ VI hoặc VII sau TL) tìm thấy tại Nillakgama (Sri Lanka) được xem như là mẫu độc nhất tồn tại như một công trình bất hủ ngày nay (ASCAR. 1954, tr. 25 vctkt; Lịch sử Tích Lan [History of Ceylon], Univesity of Ceylon Publication, tập I, phần I, hmh. XVII).
14 Giả định của Cunnigham rằng rất có thể điện thờ Caơkamana được mô phỏng theo lối điêu khắc Bhàrhut (Cunningham, sđd, tr.8, hmh. V. Id. Bhàrhut stàpa. Hmh. XXXI. 4).
15 Xem tập III, hmh. XXI.
16 Nếu muốn  biết chi tiết, xem Cunningham,Sđd, tr. 4-5, hmh. II.
17 Xem Cunningham, Sđd. tr.19-20.
18  Xem A. Cunningham, Sđd, hmh. XII; dưới tiêu đề: BODHIPARYAĩKA.
19 S.Beal, sđd, tập III, tr. 350.
20 Cunningham, sđd, tr. 8-9. Tuy nhiên, có một vài ngoại lệ trong nghệ thuật khắc trụ đá, việc tái tạo và thêm thắt sau này có lẽ sau kỷ nguyên Gupta, nhằm để phân biệt hình thức cổ của nghệ thuật ban sơ với hình thức nghệ thuật Đại thừa ngụy biện. Hàng rào được phỏng đoán rằng mẫu đầu tiên bằng gỗ, ngoài ra những hình thức khôi phục lại như đã đề cập ở trên, sau này người ta cố gắng làm nghệ thuật chạm khắc đa dạng thêm nhưng chỉ là việc làm vô ích vì nó để lại lối điêu khắc sơ sai, có lẽ do những người tin theo Mật tông sau nghệ thuật Bengal của thời kỳ Pàla và cũng bởi các tín đồ Ấn Độ giáo sau này chuộng dạng này.
21 Xem hmh. LV, hình 2.
22 Xem hmh. LV, hình 2.
23 B. Rowland,  Nghệ thuật và kiến trúc Ấn Độ [The Art and Architecture of India], London, 1953, hmh. 19; A. K. Coomaraswamy, Lịch sử nghệ thuật Ấn Độ và Indonesia [The History of Indian and Indonesian Art], ctsđd, hình 40 and 61.
24 Xem hmh. LVI; A. K. Coomaraswamy, Điêu khắc tại tháp Bồ Đề Đạo Tràng [La Sculpture de Bodhgay], Paris, 1935, hmh.  Số XLVI đến số LVI; Cunningham, ctsđd.
25 Cunningham, sđd. tr. 14-15; T. Bolch, Ghi chú về Bồ Đề Đạo Tràng [Notes on Bodhgayà] Nghiên cứu về khảo cổ Ấn Độ, Bản tường trình hàng năm [Archaeological Survey of India], Annual Report, 1908 - 09, tr. 147-148. Bản tường thuật chi tiết, xem MAHÀBODHI TEMPLE trong Từ điển Bách khoa Phật giáo.
26 Rajendralala Mitra, sđd, tr. 234; A. K. Coomaraswamy, Lịch sử nghệ thuật Ấn Độ và Indonesia [History of Indian and Indonesian Art], tr. 33 vctkt; Cunningham, sđd. tr. 17-18.
27 R. le May, Lược sử nghệ thuật Phật giáo Thái Lan, [A Concise History of Buddhist Art in Siam], Cambridge University Press, 1938, tr. 100.
28 Xem hmh. LVIII.
29 B. Rowland, sđd,  hmh. 52; A. Rajendralala Mitra, sđd tr. 76; Cunningham, sđd. tr. 17 vctkt.; A. K. Coomaraswamy, sđd. tr. 81; La Sculpture de Bodhgayà, tr.11 - 12. Những tháp tưởng niệm và những mô hình thu nhỏ như các tháp được khám phá trong khuôn viên Đại tháp ngày nay là bản hướng dẫn tốt đối với việc nghiên cứu quá trình phát triển cùa tháp ở các nước Phật giáo khác từ đầu kỷ nguyên Tây lịch trở về thời kỳ trung cổ (Xem A. Cunningham, sđd, hmh. XVIII, XIX).
30 A. Griswold, Thánh địa lưu chuyển   [The Holy Land Transported], Paranavitana Felicitation Volume, do N. A. Jayawickrama biên tập, Colombo, 1965, tr. 173 vctkt.
31 S. Beal, sđd. tr. 345. Marie - Therese De Mallmann nhận diện hai hình bên cạnh Đức Phật, bên phải là tượng ngài Quan Thế Âm (Avalokite±vara)  bên trái là Tàra [cũng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm] (M. T. De Mallmann, Introduction a Létude D ‘Avalokite±vara, Paris, 1948, tr. 133-134).
32 Hmh. LV, hình 1; Xem Cunningham, sđd, Hmh. XVII, về vị trí ngày nay của toraa được tái tạo lại). Nó cao gần 5,2m (17 feet), được kiến tạo vào thế kỷ IV và V sau TL. Một khám phá quan trọng khác là một tấm bảng đồng có khắc hình tượng của Đức Phật và vị thị giả ở  mỗi bên (Cunningham, sđd, hmh. XXVIa).
33 S. Beal, sđd, tập III, tr.345. Lối miêu tả của Cunningham và ngài Huyền Trang về sơ đồ tu viện được khám phá lại có thể so sánh với cấu trúc tu viện tại Anuràdhapura và các tu viện tại Gandhàra, cũng như tại Taxila.
34 S. Beal, sđd. tập I, tr. 39.
35 S. Beal, sđd III, tr. 357 vctkt; Watters, Huyền Trang Tây Vức ký [Si-yu-ki of Hiuene- tsiang], tập II, London, 1905, tr. 121.
36 Cunningham, sđd. tr.43 vctkt..
37 T. Bolch, Nghiên cứu khảo cổ Ấn Độ, Sđd, tr.155. Lối miêu tả của Cunningham và ngài Huyền Trang về sơ đồ tu viện được khám phá lại có thể so sánh với cấu trúc tu viện tại Anuràdhapura và các tu viện tại Gandhara, cũng như tại Taxila.
38 J. F. Fleet, CII. III. tr. 274 - 276; Khảo cổ Ấn Độ [Indian Antiquary (Bombay)]  XV, tr. 356 - 357.
39 Tạp chí Hội Châu Á Hoàng Gia thuộc Chi nhánh Tích Lan [Journal of the Ceylon Branch of the Royal Asiatic Society]) XXIV; Bhikkhu D. Sumasgala, Tịnh xá Tích Lan tại Bồ Đề Đạo Tràng [A Sinhala Monastery at Buddhagayà], Phật Tử [The Buddhist], tập XLII, số  2, 1971, tr. 95-96;  Lịch sử trường đại học của Tích Lan [University History of Ceylon], tập I, phần I,  Colombo, 1959 tr. 288. Trên trụ đá Allahabad, bia ký của hoàng đế Samudragupta đề cập đến dân tộc Saimhala, trong số những nước đồng minh với nhà vua. Có lẽ, đây là một biểu hiện mối quan hệ khối đồng minh của nhà vua và vua Sinhala - Tích Lan (CII. III, tr.8)
40 A. Guruge, sđd. tr. 617 vctkt.
41 P.V. Bapat, sđd, tr. 472 vctkt; A. Guruge, sđd, tr. 593 vctkt.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Ký ức về những ngày tranh đấu cho hòa bình, tự do vẫn còn sống động - Ảnh: Quảng Đạo/BGN

Những năm tháng viết nên câu chuyện hòa bình

GNO - Vậy là đã tròn 50 năm kể từ ngày đất nước thống nhất. Khi người dân TP.HCM đang sống trong không khí sôi nổi của những ngày tháng Tư lịch sử, thì ở một góc nhỏ bình yên của tịnh xá Ngọc Phương, từng trang ký ức về những ngày dậy sóng ở đô thị miền Nam được lật giở lại, qua lời kể của Ni trưởng Thích nữ Tuấn Liên.
7 hoa sen trên sông Hàn (TP.Đà Nẵng) kính mừng Đại lễ Phật đản Phật lịch 2569

Đà Nẵng: Lễ hạ thủy 7 hoa sen trên sông Hàn

GNO - Chiều 29-4, tại bờ đông sông Hàn (đường Trần Hưng Đạo, Q.Sơn Trà, TP.Đà Nẵng), Ban Trị sự GHPGVN TP.Đà Nẵng đã long trọng tổ chức Lễ hạ thủy 7 hoa sen tượng trưng cho 7 bước chân thanh tịnh của Đức Phật nhân dịp Đại lễ Phật đản Phật lịch 2569 - Vesak 2025.

Thông tin hàng ngày