GNO - Tắm tượng Phật với phương thức như thế, nên có thể khiến các ông
cùng hàng đại chúng trời người, hiện đời thọ hưởng giàu sang, an vui...
Giác Ngộ - Có 990 ức cư sĩ, do vì đấu tranh kiên cố, phỉ báng kinh giới… sau khi chết đều vào trong loài Rồng..., nay số lượng của loài rông nhiều không thể tính hết.
NSGN - Từ đầu tháng 3 năm 1997, khi nhận làm Trưởng ban Biên tập cho Đại tạng
kinh Linh Sơn Pháp Bảo(1), văn phòng đặt tại chùa Pháp Bảo, phường Linh
Xuân, quận Thủ Đức thành phố Hồ Chí Minh(2), thì tôi đã có được một vài
hiểu biết sơ bộ về Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu (ĐTK/ĐCTT)(3), cũng
như có được chút ít kinh nghiệm trong công việc dịch thuật Hán tạng sau
hơn hai năm tham gia Việt dịch phần Kinh tạng của ĐTK này, không còn cái
bỡ ngỡ, ngơ ngác của buổi đầu.
NSGN - Từ đầu tháng 3 năm 1997, khi nhận làm Trưởng ban Biên tập cho Đại tạng
kinh Linh Sơn Pháp Bảo(1), văn phòng đặt tại chùa Pháp Bảo, phường Linh
Xuân, quận Thủ Đức thành phố Hồ Chí Minh(2), thì tôi đã có được một vài
hiểu biết sơ bộ về Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu (ĐTK/ĐCTT)(3), cũng
như có được chút ít kinh nghiệm trong công việc dịch thuật Hán tạng sau
hơn hai năm tham gia Việt dịch phần Kinh tạng của ĐTK này, không còn cái
bỡ ngỡ, ngơ ngác của buổi đầu.
Giác Ngộ - Nội dung kinh Hiền Nhân được Đức Phật thuyết giảng trong một bối cảnh khá đặc biệt. Kinh chép lại rằng, sau khi cư sĩ Cấp Cô Độc mua lại khu vườn của Thái tử Kỳ Đà theo kiểu “vàng ròng lót đất”, đã lập tinh xá cúng dường Đức Phật cùng chúng Tăng, để thuận tiện cho việc hoằng hóa lợi sanh. Chính nơi đây, Đức Phật đã hóa độ rất nhiều người, từ thứ dân, cùng đinh cho đến vua chúa, quan lại,... đều trở thành đệ tử của Phật.
Trong câu chuyện đạo chiều chủ nhật hôm nay, tôi làm một việc giản dị là đọc quyển Kinh 42 Bài do Hòa Thượng Trí Quang dịch và chú giải (1). Hòa Thượng Thiện Siêu cũng đã dịch kinh nầy từ năm 1959, nhưng ở xa, tôi không có bản dịch của Hòa Thượng Thiện Siêu.
Câu hỏi làm thế nào thấy Như Lai, đối với chúng Thanh văn, thật lạ lùng; vì đứng trước Phật mà còn hỏi làm sao thấy Phật. Duy Ma trả lời cũng thật lạ và thật đơn giản rằng từ khi sinh đến khi chết, tất cả những gì Ngài hiểu biết, nghe thấy đều là Như Lai. Ngài thấy Như Lai qua hành động của Ngài.
Đức Phật dạy Bồ tát phương trên biết được giải thoát của Bồ tát ở Ta bà, nghĩa là muốn dạy người xuất gia cần phải biết sự giải thoát của người không xuất gia. An trụ thế giới giải thoát, thì được giải thoát; đó là chuyện thường.
Sự liên hệ mật thiết giữa thế giới Niết bàn và thế giới Ta bà, hay nói cách khác, hóa độ của Đức Phật trên nhân gian và việc làm của Ngài ở thế giới giải thoát Niết bàn, được thể hiện trọn vẹn trong cuộc đời hành đạo của Đức Phật Thích Ca. Nhìn lại khi Đức Phật tại thế, chúng ta thấy Ngài đã giáo hóa ở hai mặt, một mặt giáo hóa với tư cách sanh thân và một mặt giáo hóa dưới dạng pháp thân.
Vấn đề diễn tả trong phẩm Phật Hương Tích thuộc thần thông biến hóa. Nếu chỉ hiểu theo tín ngưỡng, chúng ta khó chấp nhận thần thoại này. Tuy nhiên, điều chắc chắn rằng Phật giáo là đạo của trí tuệ, đạo đi ngược lại với thần quyền.
Giác Ngộ - Tất cả các pháp được đề cập ở trước phẩm 8 là phương tiện để phá vọng thức hay chẻ hiểu biết phân biệt sai lầm của chúng ta để tìm cái chân thật sâu kín bên trong, chẻ cho đến tận cùng mới thấy Thiên nữ xuất hiện ở cuối phẩm Phật đạo.
Từ đầu kinh đến phẩm 7 diễn tả Bồ tát dấn thân vào đời thành tựu lợi ích chúng sinh, ở khía cạnh nào việc làm của Bồ tát cũng đẹp. Như vậy, chỉ thấy các Ngài tương ưng đối với chúng sinh. Đối với Phật, thì Bồ tát làm gì cho Phật.
Giác Ngộ - Theo quan niệm từ trước đến nay, chúng ta tu hành thường xem chúng sinh chướng ngăn chánh đạo. Chúng sinh thuộc sinh tử môn và Niết bàn thuộc giải thoát môn là hai thế giới hoàn toàn riêng biệt. Chúng sinh là cái gì đáng ghê sợ, một người còn đáng sợ, huống chi là nhiều người, hoặc nhìn thấy loài người còn ngán, kể gì đến các loài khác
Bất tư nghì, hay bất khả tư nghì nghĩa là không thể nghĩ bàn, ngoài sức hiểu của con người, đòi hỏi hành giả phải tu hành đến một trình độ nào mới hiểu. Đó là trạng thái tu chứng, diệu dụng thần thông của Bồ tát. Ở đây nêu ra một số việc làm tiêu biểu mà Thanh văn và Bồ tát không làm nổi.
Kinh Duy Ma xác định Thanh văn và Bồ tát sở đắc thuộc tam thừa giáo, đều không đạt được chân lý, chỉ hiểu được một phần, nên việc làm còn giới hạn. Vì vậy, đến phẩm này, Bồ tát Văn Thù đăng tràng để chỉ ý nghĩa Bồ tát vô sở đắc hay nhất thừa tiêu biểu cho hiểu biết toàn diện. Từ đây mới ứng dụng giáo lý vào đời có kết quả, mới giải quyết được vấn đề bệnh hay nghiệp chúng sinh. Đó là vấn đề nằm ngoài khả năng của chúng tam thừa.
Kinh Duy Ma đưa ra bốn vị Bồ tát tiêu biểu phạm phải những hành động sai lầm khi bước vào lộ trình Bồ tát và bị Duy Ma chỉnh lý. Vì vậy, khi Đức Phật bảo các vị này đến thăm bệnh Duy Ma, các Ngài đã từ chối. Bốn vị Bồ tát này là Di Lặc, Quang Nghiêm, Trì Thế và Thiện Đức. Các Ngài tiêu biểu cho tất cả hạnh Bồ tát từ khởi đầu đến kết thúc, không phải chỉ là bốn người riêng biệt.
Việc Đức Phật bảo mười đại đệ tử đến thăm Duy Ma có thật hay không, chúng ta gác qua một bên. Tôi nghĩ rằng kinh Duy Ma kiết tập sau khi Phật Niết bàn, hình thành ý thức trách nhiệm của Đại chúng bộ khác hẳn với ý tưởng xuất ly của Thượng tọa bộ.
Sau khi dạy cách thức kiến tạo Tịnh độ nhân gian, Đức Phật giới thiệu cư sĩ Duy Ma Cật bệnh sắp chết trong phẩm này. Tại sao cư sĩ Duy Ma lại xuất hiện trong phẩm Phương tiện và phương tiện này mang ý nghĩa gì. Thông thường, chúng ta hay chạy tội bằng cách đổ thừa việc sai lầm của mình là phương tiện.
Theo sư thỉnh cầu của Ban tổ chức Chương trình đào tạo Phật học từ xa,HT Thích Trí Quảng Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam,Tổng biên tập báo Giác Ngộ đã đồng ý hướng dẫn và phụ trách bộ môn kinh bộ,ở đây là chứng chỉ Kinh Duy Ma. Kính đề nghị các học viên tham chiếu thật kỹ các bài giảng của Giáo sư hướng dẫn cũng như các sách tham khảo liên quan đếnđến Kinh Duy Ma,để việc tiếp thu bài vở và đạt được kết quả tốt. Ban Tổ chức chương trình đào tạoPhật học từ xa
Lục độ tập kinh là một trong những bản kinh cổ xưa nhất được lưu hành trên đất nước ta - hình thành vào khoảng thời Hai Bà Trưng. Bởi soạn tập mà thành, do đó Lục độ tập kinh được xem là ngoại kinh (extra-canonical); truyền bản hiện nay gồm 8 quyển, 91 truyện, đa phần có nguồn gốc từ dòng văn học bản duyên Pali và Phạn ngữ, đáng kể nhất là Jataka (Chuyện tiền thân Đức Phật) với ít nhiều cải biên.