Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Hiển Tu (1921-2024)

Trưởng lão Hòa thượng Thích Hiển Tu, đại thọ 104 tuổi với 83 hạ lạp - Ảnh: Đăng Huy
Trưởng lão Hòa thượng Thích Hiển Tu, đại thọ 104 tuổi với 83 hạ lạp - Ảnh: Đăng Huy
0:00 / 0:00
0:00
GNO - Qua từng giai đoạn lịch sử của Phật giáo Việt Nam, Trưởng lão Hòa thượng đã giữ nhiều cương vị khác nhau, nhưng đều chu toàn Phật sự. Ngài được cung thỉnh làm Tôn chứng, Giới sư, Yết-ma A-xà-lê, Giáo thọ A-xà-lê, Đường đầu Hòa thượng, Chứng minh tại các Đại Giới đàn ở TP.HCM, Bến Tre, Sóc Trăng và Cà Mau...

Trưởng lão Hòa thượng Thích Hiển Tu

- Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam;

- Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Nghi lễ Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam;

- Nguyên Phó Trưởng ban Trị sự kiêm Trưởng ban Nghi lễ Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh;

- Chứng minh Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh;

- Chứng minh Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam Quận 3;

- Chứng minh Thiên Thai Thiền Giáo tông;

- Viện chủ chùa Phật Học Xá Lợi (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh);

- Viện chủ tổ đình Bửu Sơn (huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre).

Hòa thượng lúc trẻ - Ảnh tư liệu Phật Học Xá Lợi

Hòa thượng lúc trẻ - Ảnh tư liệu Phật Học Xá Lợi

I. Xuất thân

Trưởng lão Hòa thượng Thích Hiển Tu, thế danh Nguyễn Tấn Hưng, sinh năm Nhâm Tuất (1921), tại xã An Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Ngài là con thứ trong gia đình có 4 anh chị em; thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Thời, cụ bà là Trần Thị Thất.

Ngài được sinh ra và lớn lên trong một gia đình trung nông, phúc hậu, nề nếp gia phong, đạo đức, nhiều đời kính tin Tam bảo và giàu lòng yêu nước.

II. Quá trình tu học

Năm lên 5 tuổi, Hòa thượng đã sớm mồ côi cha mẹ, được bà ngoại nuôi dưỡng, và sau đó được dẫn đến Hòa thượng Vĩnh Tấn - Trụ trì chùa Kiển Phước, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre nhận làm dưỡng tử. Do căn lành nhiều đời của ngài với Phật pháp, thuở nhỏ đã được thân cận Tam bảo, gần gũi chư Tăng. Đến năm 8 tuổi, ngài đảnh lễ Hòa thượng Vĩnh Tấn thế phát xuất gia, được ban pháp danh là Thiện Duyên, tập sự công phu dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng bổn sư.

Sau khi tốt nghiệp Tiểu học, từ năm 1935 - 1940, ngài được Hòa thượng bổn sư dẫn đến tổ đình Bửu Sơn, đảnh lễ Tổ Khánh Thông, xin nhập chúng tu học, được Tổ Khánh Thông giao cho Hòa thượng Vĩnh Huệ (lúc đó là trụ trì đời thứ 2 tổ đình Bửu Sơn) nhận làm đệ tử cầu pháp, ban pháp hiệu Nhựt Quang, tự Hiển Tu, nối dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41.

Từ đó, vốn bản tính thông minh, ngài cần mẫn tham học với quý Hòa thượng như: Sư Tổ Khánh Thông, Hòa thượng Vĩnh Huệ (trụ trì chùa Bửu Sơn), Hòa thượng Vĩnh Đạt (trụ trì chùa Phước Hưng, Sa Đéc), Hòa thượng Vĩnh Tồn (chùa Toàn Phước), Hòa thượng Vĩnh Pháp (chùa Linh Phước, Ba Tri, Bến Tre)..., được các bậc thầy và huynh đệ thương mến.

Trưởng lão Hòa thượng hành trì trong thiền thất - Ảnh: Đăng Huy

Trưởng lão Hòa thượng hành trì trong thiền thất - Ảnh: Đăng Huy

Năm 1937, Hòa thượng theo học Luật Trường hàng tại chùa Long Nhiễu, xã Nhơn Thạnh, huyện Mỹ Lòng, tỉnh Bến Tre, tại nơi đây ngài được Hòa thượng bổn sư cho phép đăng đàn thọ giới Sa-di do Sư Tổ Khánh Thông làm Đàn đầu truyền trao giới pháp.

Năm 1941, sau bao năm thúc liễm thân tâm, tinh tấn tu học, Trưởng lão Hòa thượng đăng đàn thọ giới Cụ túc tại Trường kỳ Giới đàn chùa Bửu Sơn, xã Tân Thủy, huyện Ba Tri, Bến Tre, do Tổ Khánh Thông, Tổ Khánh Hòa khai kỳ, Sư Tổ Khánh Thông làm Hòa thượng Đường đầu truyền giới, cùng các bậc cao Tăng đương thời chứng minh Giới đàn. Từ đây, ngài chính thức dự vào hàng cập đệ - Chúng Trung Tôn, nhận trọng trách “Sứ giả Như Lai”, được Hòa thượng Vĩnh Huệ ban kệ phú pháp:

Nhựt xuất ư không trung

Quang minh tận vô cùng

Hiển hành chơn chánh đạo

Tu liễu ngộ viên dung.

Từ năm 1941 - 1945, Trưởng lão Hòa Thượng tiếp tục cầu học Phật pháp với các bậc danh đức thời bấy giờ tại Bến Tre, đặc biệt nghi lễ ứng phú đạo tràng với Hòa thượng Vĩnh Pháp - Trụ trì chùa Linh Phước, xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

Sau khi Tổ Khánh Thông - Khai sơn Tổ đình Bửu Sơn viên tịch, Hòa thượng Vĩnh Huệ - Trụ trì tổ đình Bửu Sơn đời thứ 2 đã triệu tập chư sơn thiền đức trong tông môn trực thuộc tổ đình gồm các thế hệ truyền thừa đời thứ 2 như quý Hòa thượng: Vĩnh Tấn, Vĩnh Huệ, Vĩnh Đạt, Vĩnh Tồn, Vĩnh Pháp và thế hệ truyền thừa đời thứ 3 như Hòa thượng: Hiển Giác, Hiển Tu, Hiển Pháp, Hiển Tánh, Hiển Ngộ, thành lập Ban Trưởng tử, ý hướng kế thừa gồm: Hòa thượng Hiển Giác (Trưởng tử), Hòa thượng Hiển Tu (Phó Trưởng tử) để tiếp tục duy trì thanh quy, thiền môn quy củ, nhằm chấn chỉnh lại sơn môn tổ đình Bửu Sơn.

Có thể nói, từ thuở sơ tâm mới phát cho đến ngày Cụ túc châu viên, Hòa thượng luôn giữ vững chí nguyện xuất trần, khiêm cung cầu học, trau dồi giới đức, trang nghiêm tự thân. Chính quãng thời gian tham học các lớp gia giáo Phật pháp với các bậc cao Tăng thạc đức, từ nguồn giáo dục truyền thống, đậm chất Nam bộ, mang nặng tình người, tình yêu quê hương đất nước, thấm nhuận quy củ thiền môn “Hạnh giải tương ưng” đã tạo thành nền tảng giúp ích cho công cuộc du hóa và đạo nghiệp của Hòa thượng sau này.

Hơn nửa thế kỷ Trưởng lão Hòa thượng gắn bó với ngôi chùa Phật Học Xá Lợi lịch sử - Ảnh: Đăng Huy

Hơn nửa thế kỷ Trưởng lão Hòa thượng gắn bó với ngôi chùa Phật Học Xá Lợi lịch sử - Ảnh: Đăng Huy

III. Quá trình hành đạo

Hòa thượng sinh trưởng trong thời gian đất nước trải qua nhiều biến động lịch sử lớn, thuở thiếu thời nương cửa thiền, chuyên tâm nội điển, noi gương Tổ đức cần mẫn công phu. Vừa tròn tuổi xuân, trước cảnh khổ đau trong cơn lầm than của đất nước, ngài chẳng hề e ngại mà nhập thế giúp đời. Ngài cùng các pháp lữ như quý Hòa thượng Hiển Pháp, Hòa thượng Hiển Tánh (Thiện An), Hòa thượng Hiển Giác, Hòa thượng Hiển Ngộ (Minh Từ), v.v… gánh vác Phật sự tại huyện nhà.

Trong giai đoạn khúc quanh lịch sử đất nước từ năm 1945 cho đến 1949, thực dân Pháp trở lại đánh chiếm Nam kỳ, trong đó, tỉnh Bến Tre cũng bị chiếm đóng, gây bao đau khổ, chịu cảnh loạn ly cho đồng bào ta. Trước nỗi nguy nan của dân tộc, bi xót với nỗi khổ đau của đồng bào, theo sự ủng hộ của chư sơn thiền đức có uy tín thời bấy giờ, với tinh thần “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên” của Bồ-tát hạnh, Hòa thượng đã tham gia Mặt trận Việt Minh, ra chiến khu ở vùng bưng Thạnh Phú, Bến Tre; sau đó hoạt động bí mật tại chiến khu thuộc tỉnh Sông Bé (nay là tỉnh Bình Dương). Tuy hình thức là chiến sĩ cách mạng, mà trong thân tâm vẫn là một tu sĩ tự thân nỗ lực tu trì, giới hạnh trang nghiêm, dù hoàn cảnh đất nước loạn lạc do chiến tranh, lòng người ly tán, hợp tan, dù nghịch cảnh nhưng Hòa thượng vẫn một lòng nhẫn nại, gìn giữ đạo tâm, chí hướng đầy đủ nhân duyên chấn hưng Phật giáo.

Năm 1951, chiến sự tạm lắng dịu, Hòa thượng về trú tại chùa Khánh Vân, xã Hiệp Hưng, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, vừa đảm nhiệm Phó Trụ trì, gánh vác Phật sự và tham gia công tác của tổ chức Phật giáo Cứu quốc huyện Ba Tri. Hơn hai năm sau, Hòa thượng Vĩnh Tồn - Trụ trì chùa Toàn Phước, Ba Tri bị giặc Pháp tra tấn đến hy sinh, Hòa thượng trở về lại đảm nhiệm chức Trụ trì, gìn giữ sơn môn, phát huy những truyền thống Phật giáo và Dân tộc.

Ngài là một trong những bậc giáo phẩm được nhiều giới kính mến - Ảnh: Đăng Huy

Ngài là một trong những bậc giáo phẩm được nhiều giới kính mến - Ảnh: Đăng Huy

Những năm đầu thập niên 1960, Hòa thượng lên Sài Gòn tham dự các khóa An cư kiết hạ và theo học khóa “Như Lai sứ giả” ở chùa Pháp Hội, tỉnh Chợ Lớn (nay là TP.Hồ Chí Minh) do Hòa thượng Thiện Hòa - Giám đốc Phật học đường Nam Việt, Hòa thượng Thiện Hoa - Phó Giám đốc của Phật học đường Nam Việt tổ chức, cũng như theo học thế học và tốt nghiệp tú tài toàn phần. Trong thời gian này, Đại lão Hòa thượng là thành viên Chi hội Tăng già Nam Việt Sài Gòn - Gia Định.

Với sở học nội điển vững vàng và cùng sự cần mẫn, khiêm cung, sau ba tháng kiết đông của khóa “Như Lai sứ giả”, Hòa thượng được Ban Giám đốc Phật học đường Nam Việt công cử đi làm trụ trì nhiệm kỳ 3 năm tại chùa Vạn Đức, tỉnh Sóc Trăng. Khi mãn nhiệm kỳ, Hòa thượng được cử đặc trách Tăng sự, kiểm tra các tự viện, nội ngoại thành Sài Gòn, tỉnh Gia Định.

Từ thập niên 1960 đến 1970, Trưởng lão Hòa thượng trở về quê hương Ba Tri, được thỉnh làm trụ trì chùa Thắng Quang (xã Ngãi Trung, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Giai đoạn này, Trưởng lão Hòa thượng vừa tu học, vừa tích cực tham gia phong trào Cách mạng tại huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, với vai trò Phó Trưởng ban An ninh Nội chính huyện Ba Tri.

Trong thời điểm này, sau khi Hòa thượng Vĩnh Đạt được Giáo hội Tăng già Nam Việt điều động về lãnh đạo công tác Phật sự tại tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp), Hòa thượng Hiển Giác về lãnh đạo Phật giáo tỉnh Minh Hải, ngài được chư tôn đức và Tăng Ni, Phật tử trong sơn môn trạch cử kế đăng trụ trì tổ đình Bửu Sơn; cùng với quý Hòa thượng Hiển Pháp, Hòa thượng Hiển Ngộ (Minh Từ) tiếp nối sự nghiệp của Thầy Tổ để giữ gìn tông phong của tổ đình Bửu Sơn - một sơn môn có uy tín lớn của xứ Nam kỳ thời bấy giờ.

Tuổi cao nhưng ngài vẫn giữ nếp đọc sách, hành trì thường nhật - Ảnh: Đăng Huy

Tuổi cao nhưng ngài vẫn giữ nếp đọc sách, hành trì thường nhật - Ảnh: Đăng Huy

Năm 1962, Hội Phật học Nam Việt thỉnh ngài đảm nhiệm Phó Trụ trì chùa Phật học Xá Lợi - trụ sở của Hội và cũng là một trong những trung tâm đầu não, lãnh đạo Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ.

Trong Pháp nạn năm 1963, Hòa thượng đã cùng chư tôn đức tham gia lãnh đạo phong trào đấu tranh hòa bình, bất bạo động của Tăng Ni, Phật tử các giới phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Sau khi cuộc đấu tranh thành công, chế độ độc tài sụp đổ, Hòa thượng từ giã chùa Xá Lợi, trở về hành đạo tại quê hương Bến Tre, xây dựng tổ chức Phật giáo tại địa phương.

Hành đạo tại quê hương, Hòa thượng tham gia Giáo hội Lục Hòa Tăng, được cử làm Đặc ủy Tăng sự tỉnh Bến Tre. Năm 1964 - 1968, Trưởng lão Hòa thượng được suy cử chức vụ Phó ban Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tỉnh Kiến Hòa (nay là tỉnh Bến Tre). Giai đoạn này, Trưởng lão Hòa thượng tiếp tục cùng những người yêu nước huyện Ba Tri đấu tranh đòi hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước với chế độ Sài Gòn, tích cực ủng hộ cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân.

Từ năm 1966 đến năm 1975, Hòa thượng được suy cử Chánh Đại diện Phật giáo Lục Hòa Tăng tỉnh Kiến Hòa (nay là tỉnh Bến Tre). Năm 1966, ngài khai sơn Thích Ca Tu viện, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre và gánh vác trách nhiệm Trụ trì cho đến năm 1975, đồng thời được cung thỉnh tham gia Giáo hội Tăng già Nam Việt tỉnh Bến Tre. Khi đất nước thống nhất, ổn định xong các Phật sự tại địa phương, Hòa thượng xin nhường lại các vai trò lãnh đạo Phật giáo để cất bước vân du khắp các tỉnh thành miền Tây, miền Đông Nam bộ, thuyết giảng Phật pháp tại các đạo tràng, giao lưu các pháp hữu đồng đạo thuộc các tổ chức Giáo hội.

Suốt thời gian này, Trưởng lão Hòa thượng tiếp tục liên hệ chặt chẽ với Cách mạng địa phương để vận động quần chúng đấu tranh chính trị với chế độ Sài Gòn, như chống càn, chống bắn phá bừa bãi, đấu tranh đòi hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc...

Ngài được suy tôn lên ngôi vị Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN - Ảnh: Đăng Huy

Ngài được suy tôn lên ngôi vị Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN - Ảnh: Đăng Huy

Năm 1978, với uy tín và đạo hạnh của Hòa thượng, ông Lê Ngọc Diệp với tư cách là Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt xuống tận Ba Tri tìm để cung thỉnh ngài lên Sài Gòn làm trụ trì chùa Phật Học Xá Lợi. Từ đây, Hòa thượng dốc hết tâm lực, thừa đương Phật sự, gắn bó với Phật giáo Quận 3 nói riêng và Thành phố Hồ Chí Minh nói chung. Với đạo phong, tính cách cương trực, chân thật và giàu đức hiếu nhân của ngài đã làm cho hàng cư sĩ trí thức trong Hội Phật học Nam Việt vô cùng kính phục. Sự chứng minh và lãnh đạo của Hòa thượng đã góp phần thúc đẩy Hội hoạt động mạnh mẽ, tạo nhân duyên cho sự chuyển mình, góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc sau khi đất nước được hòa bình, độc lập và thống nhất.

Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập từ 9 tổ chức Giáo hội, trong đó có Hội Phật học Nam Việt và Giáo hội Lục Hòa Tăng. Hòa thượng là người tiên phong cho Cuộc vận động thống nhất các tổ chức Giáo hội, là nhân tố trung gian góp phần cho sự hòa hợp, thống nhất giữa các tổ chức Phật giáo.

Năm 1985, Hòa thượng Thích Thiện Hào được Hội Phật học Nam Việt cung thỉnh làm Viện chủ chùa Phật Học Xá Lợi. Với tư cách Trưởng ban Trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, ngài đã tổ chức khóa An cư kiết hạ tại chùa Xá Lợi Hòa thượng được cung thỉnh làm Hóa chủ Trường hạ.

Nhiệm kỳ III (1990 - 1993), nhiệm kỳ IV (1993 - 1997), và nhiệm kỳ V (1997 - 2002), Trưởng lão Hòa thượng được mời tham gia Ủy viên Ban Trị sự đặc trách Nghi lễ Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời được cung thỉnh làm chứng minh Ban Đại diện Phật giáo Quận 3. Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ III (1992), ngài được Đại hội tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng, suy cử đảm nhiệm Phó Trưởng ban Thường trực Ban Nghi lễ Trung ương GHPGVN.

Trong lễ mừng ngài thượng thọ tại chùa Phật Học Xá Lợi - Ảnh: Đăng Huy

Trong lễ mừng ngài thượng thọ tại chùa Phật Học Xá Lợi - Ảnh: Đăng Huy

Năm 1988, Hòa thượng được Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh chính thức bổ nhiệm làm Trụ trì chùa Phật Học Xá Lợi. Năm 1997, sau khi Hòa thượng Thích Thiện Hào viên tịch, ngài đảm nhiệm trụ trì kiêm Viện chủ chùa Phật Học Xá Lợi.

Với uy tín và đạo hạnh, Hòa thượng lần lượt được suy cử Ủy viên Ban Trị sự đặc trách Nghi lễ Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Trưởng ban Nghi lễ Trung ương GHPGVN, suy cử Phó Trưởng ban Trị sự ,Trưởng ban Nghi lễ Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, Chứng minh Ban Đại diện Phật giáo Quận 3 (nay là Ban Trị sự GHPGVN Quận 3), Chứng minh Ban Nghi lễ Trung ương GHPGVN.

Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IV (1997), Trưởng lão Hòa thượng được đại hội suy tôn Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

Đại hội Đại biểu Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VI (2002 - 2007), ngài được suy cử chức vụ Phó Trưởng ban Trị sự kiêm Trưởng ban Nghi lễ Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 2007, Hòa thượng được cung thỉnh lên hàng Giáo phẩm Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VI, Trưởng lão Hòa thượng được Đại hội suy tôn Ủy viên Thường trực Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đồng thời chứng minh Ban Nghi lễ Trung ương GHPGVN.

Đại hội Đại biểu Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VII (2007), Trưởng lão Hòa thượng được cung thỉnh lên hàng Giáo phẩm chứng minh Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, Chứng minh Ban Đại diện Phật giáo Quận 3 (nay là Ban Trị sự GHPGVN Quận 3) cho đến ngày về cõi Phật.

Năm 2008, dưới sự ủy thác của Hòa thượng và chư Tôn đức trong tông môn tổ đình, Thượng tọa Thích Minh Hạnh được bổ nhiệm là trụ trì tổ đình Bửu Sơn, xã An Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Trưởng lão Hòa thượng được cung thỉnh là Viện chủ tổ đình Bửu Sơn cho đến ngày xả báo an tường.

Tại Đại hội Đại biểu Giáo hội Phật giáo Việt Nam lần VII (2012), Trưởng lão Hòa thượng được suy cử đảm nhiệm Phó Thư ký Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

Đầu năm 2015, Trưởng lão Hòa thượng cảm thấy lớn tuổi cần có thời gian tịnh tu, ngài đã đề nghị Giáo hội thành lập Ban Trụ trì chùa Phật Học Xá Lợi, giao lại việc điều hành Phật sự tại chùa cho Hòa thượng Thích Đồng Bổn làm trụ trì, Thượng tọa Thích Phước Triều làm Phó trụ trì chăm lo Phật sự tại bổn tự. Ngài được cung thỉnh ngôi vị viện chủ, chuyên tâm tịnh tu cho đến ngày hóa duyên ký tất.

Qua từng giai đoạn lịch sử của Phật giáo Việt Nam, Trưởng lão Hòa thượng đã giữ nhiều cương vị khác nhau, nhưng đều chu toàn Phật sự. Hòa thượng được cung thỉnh làm Tôn chứng, Giới sư, Yết-ma A-xà-lê, Giáo thọ A-xà-lê, Đường đầu Hòa thượng, Chứng minh tại các Đại Giới đàn ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bến Tre, Sóc Trăng và Cà Mau, thí giới khai tâm, truyền trao giới pháp cho hàng Tăng Ni hậu học, nương công đức của Ngài mà tiến tu đạo nghiệp, cũng như chứng minh, ban đạo từ cho các lễ hội, sự kiện quan trọng của Văn phòng 2 Trung ương Giáo hội, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bến Tre.

Song song với việc chuyên tâm nghiên cứu nội điển, Hòa thượng cũng đều có nhiều đóng góp Phật sự quan trọng cho Giáo hội, với tinh thần “tùy duyên bất biến” Hòa thượng đã đem hết tâm lực để phụng sự dân tộc, phụng sự Đạo pháp không mệt mỏi. Dù niên cao, lạp trưởng, lui về thiền thất, ngài vẫn luôn động viên Tăng Ni, Phật tử yên tâm hành đạo và tích cực tham gia công tác Phật sự, ổn định đời sống tu hành, tiếp Tăng độ chúng, quy y Tam bảo cho Phật tử.

Tại Hội nghị kỳ V khóa VIII của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, để ghi nhận công đức của Trưởng lão Hòa thượng, toàn thể Hội nghị đã nhất tâm suy tôn ngài lên ngôi vị Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh và được Đức Đại lão Hòa thượng Đệ Tam Pháp chủ Thích Phổ Tuệ chính thức ban Giáo chỉ ngài lên ngôi vị Phó Pháp chủ.

Tháng 11-2022, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IX, nhiệm kỳ 2022-2027, Trưởng lão Hòa thượng được Đại hội tiếp tục suy tôn ngôi vị Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Ngài là bậc Trưởng lão có nếp sống giản dị - Ảnh: Đăng Huy

Ngài là bậc Trưởng lão có nếp sống giản dị - Ảnh: Đăng Huy

Về mặt xã hội, Hòa thượng là một trong những vị tôn đức Phật giáo có uy tín và ảnh hưởng lớn với quần chúng, nhận được tình cảm kính trọng đặc biệt của Tăng Ni, Phật tử, Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước, cũng như cộng đồng xã hội. Chùa Phật Học Xá Lợi trong thời kỳ lãnh đạo của ngài vẫn duy trì là một trong những trung tâm tu học lớn của Quận 3 và Thành phố Hồ Chí Minh có giá trị lịch sử và giữ vai trò quan trọng trong công tác giáo dục, đào tạo Tăng tài. Đặc biệt, hiện nay chùa Phật Học Xá Lợi là một trong các trung tâm nghiên cứu học thuật của Phật giáo Việt Nam, đào tạo Tăng tài, giữ mối quan hệ tốt đẹp với các phái đoàn Phật giáo quốc tê. Hơn 60 năm hình thành và phát triển của ngôi chùa Phật Học Xá Lợi lịch sử, với công sức, tâm huyết của biết bao quý tôn đức đạo cao đức trọng, tiêu biểu cho Phật giáo Việt Nam, các tầng lớp cư sĩ trí thức Phật giáo quy tụ đông đảo, trong chặng đường này, dấu ấn của Trưởng lão Hòa thượng Thích Hiển Tu thật đậm nét, với hơn 40 năm đảm nhiệm vai trò Trụ trì và hiện đương vi Viện chủ chùa Phật Học Xá Lợi, đức tu của Hòa thượng vẫn là chỗ nương tựa cho tứ chúng tu tập, là tấm gương sáng cho hậu thế noi theo.

Với công lao to lớn và thành tích xuất sắc, đóng góp vào sự nghiệp Cách mạng, phụng sự Đạo pháp và Dân tộc, Trưởng lão Hòa thượng được Trung ương Giáo hội và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Bằng tuyên dương công đức của Hội đồng Trị sự; Huân chương Độc lập hạng Nhì; Bằng khen của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và nhiều phần thưởng cao quý khác của Trung ương Giáo hội và Nhà nước.

Gần gũi và độ lượng với các thế hệ hậu học - Ảnh: Đăng Huy

Gần gũi và độ lượng với các thế hệ hậu học - Ảnh: Đăng Huy

IV. Thời kỳ viên tịch

Quả thật, Trưởng lão Hòa thượng là tấm gương sáng tốt đạo đẹp đời của hôm nay và mai sau. Mặc dù đảm nhiệm cương vị khác nhau của Giáo hội qua các thời kỳ trước và sau năm 1975, trụ trì nhiều chùa, ngài luôn dành nhiều tâm huyết cho công tác Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam các cấp, và luôn luôn giữ gìn phạm hạnh thanh cao, xứng đáng là bậc tòng lâm thạch trụ của Tăng Ni, Phật tử.

Huyễn thân tứ đại đến hồi suy yếu, định luật vô thường không hẹn cùng ai. Dù tứ thể bất an nhưng ngài vẫn thản nhiên giữ chánh niệm. Nhớ khi xưa chốn song lâm, Đức Thế Tôn còn hiện tướng Niết-bàn, bao năm trụ tích Ta-bà, thân tứ đại theo duyên tăng giảm, Trưởng lão Hòa thượng luôn xem trần gian là hóa thành, chỉ có cõi Phật mới là bảo sở. Do đó, mọi công việc Trưởng lão Hòa thượng đã sắp xếp chu toàn.

Thế rồi, chốn song lâm mây ẩn bóng ưu đàm, thuyền Bát nhã xuôi dòng bản thể, Trưởng lão Hòa thượng đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 22 giờ 30 phút, ngày 12 tháng 2 năm 2024 (nhằm mồng 3 tháng Giêng năm Giáp Thìn) tại chùa Phật Học Xá Lợi, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; trụ thế: 104 năm, hạ lạp: 83 năm.

Nam-mô phụng vì Việt Nam Phật giáo Giáo hội Chứng minh Hội đồng Phó Pháp chủ, Phật Học Xá Lợi đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ tứ thập nhất thế, pháp húy thượng Nhựt hạ Quang, hiệu Thiện Duyên, tự Hiển Tu, Nguyễn công Trưởng lão Hòa thượng thùy từ chứng giám.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Khái quát về Mandala

Khái quát về Mandala

GNO - Mandala là tiếng Phạn, Hán ngữ phiên âm là Mạn đồ la, Mạn đà la, Mạn tra la và Hán ngữ dịch nghĩa là Đàn, Đàn tràng, Đạo tràng, Luân viên cụ túc, Tụ tập v.v…

Thông tin hàng ngày