"Đêm đêm tưởng dạng Ngân hà
Bóng sao Tinh đẩu đã ba năm tròn
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy, lòng còn trơ trơ”.
(Tục ngữ Phong dao, tập dưới, NXB Mặc Lâm, S, 1968, tr.85)
Có người đã xem 4 câu ca dao trên là đoạn sau của bài ca dao gồm 10 câu, với 6 câu đầu là:
"Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai
Buồn trông chênh chếch sao Mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ...”(1)
Nhưng dù là 10 câu hay 4 câu, điều đáng chú ý vẫn là nơi câu cuối với hình ảnh Tào Khê hiện rõ:
"Tào Khê nước chảy, lòng còn trơ trơ!”
Tào Khê là tên một dòng sông ở Đông Nam huyện Khúc Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, nơi có ngôi chùa cổ Bảo Lâm, còn gọi là Nam Hoa, từng là đạo tràng lớn của Đại sư Huệ Năng (638-713), vị Tổ thứ 6 của Thiền tông Trung Quốc. Từ Tào Khê, Thiền tông Trung Quốc đã nối tiếp và phát huy với 5 thiền phái: Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn. Như vậy, Tào Khê là thắng cảnh gắn liền với danh lam, là một thiền cảnh, hơn nữa, trong chiều hướng thâu tóm và khái quát, nói đến Tào Khê là nói đến cảnh Phật, pháp Phật, với sứ mạng cứu người độ đời.
Cùng với các thiền phái Lâm Tế, Tào Động... được truyền vào Việt Nam, thiền cảnh Tào Khê cũng đã đến với đất nước Việt Nam, đi vào văn học Việt Nam, có mặt một cách sinh động nơi văn học dân gian, văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm. Nếu ở văn học dân gian, Tào Khê chỉ có mặt nơi mỗi một bài ca dao duy nhất kia(2) thì ở văn học chữ Hán, chữ Nôm, thiền cảnh Tào Khê đã hiện diện khá phong phú.
- Thiền sư VIÊN CHIẾU (999-1090) đời Lý, trong tác phẩm “Tham đồ hiển quyết”, đã hai lần nói đến Tào Khê, đều là từ phía người hỏi:
Hỏi: Hải tạng thao thao ưng bất vấn
Tào Khê trích trích thị như hà?
(Kho biển mênh mông chẳng màng đến
Tào Khê róc rách ý sao đây?)
Đáp: Phong tiền tùng hạ thê lương vận
Vũ hậu đồ trung thiển trọc nê.
(Thông reo trước gió tiếng buồn thay
Mưa tạnh sau chân biết lối lầy)
(Dẫn theo Thiền uyển tập anh, Ngô Đức Thọ dịch, 1990, tr.61-62)
Hỏi: Như hà thị Tào Khê nhất lộ?
(Thế nào là con đường Tào Khê?)
Đáp:Khả lâu khắc chu khách
Đáo xứ ý thông thông.
(Đáng thương kẻ vạch thuyền
Khắp chốn biết tìm đâu!).(Sđd, tr.75)
- Nơi tác phẩm Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung (1230-1291) một gương mặt thi ca nổi bật của Thiền học và văn học Việt Nam đầu đời Trần, cũng đã nhiều lần nói đến Tào Khê. Ở bài “Phóng cuồng ca”, ông viết:
Phỏng Tào Khê hề, ấp Lư Thị...
(Thăm Tào Khê hề, ra mắt Lư Thị)
(Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục, Trúc Thiên dịch, ĐH Vạn Hạnh xuất bản, S, 1969, tr.95)Ở bài “Thị chúng”, mang ý hướng ca ngợi cuộc sống tự tại của người đạt đạo, hiển lộ cái thể tánh sáng suốt chưa từng bị lấp che của tự thân, Tuệ Trung đã nhắc đến Tào Khê đi cùng với Thiếu Thất:
Hưu đầm Thiếu Thất dữ Tào Khê
Thể tánh minh minh vị hữu mê
Cổ nguyệt chiếu phi quan viễn cận
Thiên phong xuy bất giản cao đê...
(Thôi tìm Thiếu Thất với Tào Khê
Thể sáng chưa từng bị lấp che
Gió lộng không chia cao với thấp
Trăng soi chẳng ngại
chiếu trăm bề...)
(Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Phật giáo sử luận I, bản in 1992, tr.330)
Tuệ Trung Thượng Sĩ còn nhắc đến Tào Khê hai lần nữa: Nơi bài “Chăn trâu đất” (Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục, Sđd, tr.133) và bài “Tự đề”, (Sđd, tr.163), cũng là những ghi nhận về thiền cảnh, Phật cảnh không thể thiếu cho sự diễn đạt của mình.
- Vua TRẦN NHÂN TÔNG (1258-1308), là đệ nhất Tổ của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần, nơi bài phú chữ Nôm “Cư trần lạc đạo phú” cũng không quên nói đến thiền cảnh Tào Khê:
“T rà Triệu Lão, bánh Thiều Dương, bày Thiền tử hãy còn đói khát.
Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu Thất, chúng nạp tăng những để lưu hoang...”.
(Dẫn theo Hợp tuyển Thơ văn VN, thế kỷ X - thế kỷ XVII, NXB Văn Học, 1976, tr.114)
- NGUYỄN ỨC (thế kỷ XIV) làm quan dưới triều vua Trần Minh Tông (1300-1357), bạn thân của Trần Quang Triều (1287-1325) - con của Trần Quốc Tảng (1252-1313), cháu nội của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (1232-1300), là người đã biên tập tác phẩm Cúc đường di thảo của Trần Quang Triều, nơi bài thơ: “Mồng một Tết, yết kiến Thượng nhân Nguyệt Đàm, chùa Diên Quang” (Nguyên nhật yết Diên Quang tự Nguyệt Đàm Thượng nhân) đã xem phong cảnh nơi chùa Diên Quang ấy chẳng khác gì thiền cảnh Tào Khê:
Đông phong trước ý đáo kỳ lâm
Lộ nhập Tào Khê bất viễn tầm
Kỷ xứ vũ hoa bình giảng tịch
Nhất đàm hàn nguyệt ấn thiền tâm.
Đạo vô Nam Bắc, nhân do cổ
Thi thiệp phong tao thú cánh thâm
Chủ vĩ thập niên lao mộng tưởng
Biện hương hà hạnh đắc như câm.
(Gió xuân đưa tới Kỳ Lâm
Tào Khê đây lối phải tầm chi xa
Mấy nơi chiếu giảng mưa hoa
Một đầm trăng lạnh in qua lòng Thiền
Đạo chung Nam Bắc rọi truyền
Phong tao chuẩn mực khơi niềm thú sâu
Mười năm mộng tưởng lẽ mầu
May sao được dịp nay hầu dâng hương).
(Hoàng Lê dịch, Thơ văn Lý Trần T3, NXB KHXN, 1978, tr.43)
Không chỉ nói đến Tào Khê, Nguyễn Ức còn nhắc lại câu nói nổi tiếng của Lục tổ Huệ Năng khi trả lời Ngũ tổ Hoằng Nhẫn: “Đạo không có Bắc Nam...”, chứng tỏ Nguyễn Ức hết sức kính mộ Thượng nhân Nguyệt Đàm này. Đây là vị cao tăng đã được thi ca đề cập tới, nhưng chưa được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam.
- NGUYỄN TRÃI (1380-1442), cả ở thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán đều có nói đến Tào Khê.
- Nơi bài thơ Nôm "Thuật hứng” (bài số 19), ông viết:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
Tào Khê rửa ngàn tầm suối
Sạch chẳng còn một chút phàm.
(Nguyễn Trãi toàn tập, NXB KHXH, 1976, tr.417)
- Đáng chú ý hơn hết là nơi bài thơ chữ Hán "Thăm chùa Nam Hoa” (Du Nam Hoa tự):
Thần tích phi lai kỷ bách xuân
Bảo Lâm hương hỏa khế tiền nhân
Hàng long phục hổ cơ hà diệu
Vô thụ phi đài ngữ nhược tâm
Điệu trắc khởi lâu tàng Phật bát
Khám trung di tích thuế chân thân
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần.
(Gậy thần bay đến mấy trăm niên
Hương hỏa Bảo Lâm giữ trọn nguyền
Phục cọp, hàng rồng sao phép diệu
Chẳng đài, không thụ vẫn lòng truyền
Nơi tàng bát Phật lầu bên đấy
Dấu lột xác phàm tháp giữ nguyên
Trước cửa Tào Khê dòng nước chảy
Lâng lâng gột sạch mọi trần duyên).
(Đào Duy Anh dịch, Nguyễn Trãi toàn tập, sđd, trang 383-384)
Không chỉ nói đến Tào Khê, tôn vinh Tào Khê, tôn vinh pháp Phật trong sứ mạng cứu khổ, diệt mê, Nguyễn Trãi còn gợi lại uy lực của Lục tổ Huệ Năng trong nỗ lực hàng phục ngoại cảnh: Phục cọp, hàng rồng sao phép diệu.
Cùng nhắc lại bài kệ ngộ đạo nổi tiếng của Lục tổ: Chẳng đài không thụ vẫn lòng truyền.
Chỉ với mỗi bài thơ này, cũng đủ để khẳng định Nguyễn Trãi là một Phật tử.
* Đầu thế kỷ XVIII, Ngô Thì Ức (1709-1736) người mở đường cho truyền thống văn học của Ngô gia văn phái, cũng là người mở đầu cho truyền thống mộ Phật của danh gia vọng tộc này, nơi bài thơ chữ Hán viết về chùa Linh Quang (Đề Linh Quang tự), thiền cảnh Tào Khê cũng được gợi nhắc:
Lưu ly nhất thốc bạng giang đình
Ảo xuất Tào Khê cảnh giới thanh
Huyền vũ long cương bài Phật ấn
Thanh lưu yến vĩ trạm tăng bình
Hoa khai ngọc xế quỳnh thiên thụ
Nguyệt chiếu hồi lan dạ ngũ canh
Chủng chủng thanh kỳ đô hoan cựu
Thiện căn tá vấn kỷ niên thành.
(Bên đình sông có chùa lộng lẫy
Cảnh giới thanh ngỡ đấy Tào Khê
Gò rồng đội nóc bồ đề
Dòng xanh đuôi yến nước chia tràn bầu.
Quỳnh muôn đóa in mầu thềm ngọc
Trăng năm canh sáng rực bao lơn
Thanh kỳ nét trổ vàng son
Phải chăng quả thiện vuông tròn
từ lâu).
(Tham Tuyền dịch, Một số tác giả và tác phẩm trong Ngô gia văn phái, Sở VH-TT Hà Sơn Bình XB, 1980, trang 69-70).
- Và NGÔ THÌ NHẬM (1746-1803) cháu nội của Ngô Thì Ức, là gương mặt thi ca tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XVIII, tác giả tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ Nguyên Thanh nổi tiếng, nơi bài thơ "Đậu thuyền bến Hội Khê” cũng đã nói tới Tào Khê. Đấy là cảnh Hội Khê nhưng Ngô Thì Nhậm đã liên tưởng đến Tào Khê:
Chẳng phải Tào Khê, chính Hội Khê
Đôi nhà thấp thoáng liễu ven đê...
(Bất thị Tào Khê, thị Hội Khê
Sổ duyên y ước liễu dương đê...)
(Hợp tuyển Thơ văn Ngô Thì Nhậm, T1, NXB KHXH, 1978, trang 119-120).
v Thi hào NGUYễN DU(1765-1820) tuy không nói tới Tào Khê, nhưng nơi bài thơ chữ Hán khá dài "Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài” (Đài đá phân kinh của thái tử Chiêu Minh đời Lương), được viết trong chuyến đi sứ sang Trung Hoa năm 1813-1814, sau khi nêu bật một số điểm về Phật, về tu Phật (Phật thuyết pháp độ sinh, tha độ, tự độ), Nguyễn Du đã nhắc đến 2 câu đầu nơi bài kệ của Lục tổ Huệ Năng:
“Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết pháp độ nhân như hằng hà sa số
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại như tâm đầu
Minh kính diệc phi đài
Bồ đề bản vô thụ...”
(Phật xưa thuyết pháp độ người
Nhiều như vô số cát nơi sông Hằng
Chân tâm hiện chính từ tự độ
Linh Sơn nên tìm ở tâm mình
Gương sáng không phải đài
Bồ đề vốn không cây...).
(Dẫn theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn Học, 1978, tr.445, phần dịch thơ là của chúng tôi)
Sách Việt Nam Phật giáo sử luận I của giáo sư Nguyễn Lang đã nhấn mạnh về sự phát triển của dòng thiền phương Nam (Huệ Năng): “Nhưng sự truyền thừa của Bắc tông (Thần Tú) ngắn ngủi quá, chỉ trong mấy thế hệ đã bị mai một. Trong khi đó, sự truyền thừa của Nam tông (Huệ Năng) phát triển mạnh” (sđd, tr.175).
Chính sự phát triển mạnh của Thiền tông phương Nam đã có ảnh hưởng lớn đối với Phật giáo Việt Nam, với các thiền phái được du nhập: Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, và sau này là Lâm Tế, Tào Động. Điều ấy giúp chúng ta lý giải về sự có mặt của thiền cảnh Tào Khê trong văn học Việt Nam.
(1) Xem Ca dao tục ngữ Phật giáo VN, Thích Trung Hậu sưu tập, NXB TP.HCM, 2002, tr.383.
(2) Hiện tượng này có thể xem như là một cố gắng, từ văn học chữ Hán, chữ Nôm đẩy sang văn học dân gian. Trong sách Thiền học Việt Nam, GS. Nguyễn Đăng Thục đã dẫn 2 câu (Thơ? Ca dao? Thơ dịch? - vì không nêu rõ xuất xứ) viết rất đạt về Tào Khê:
“Ai nhìn sáu Tổ năm Tông
Thiền hà muôn phái một dòng Tào Khê”
(Sđd, NXB Lá Bối, S, 1967, tr.75)
Bình luận