Khởi tu của Thanh văn là thực tập Tứ niệm xứ, quán thân, thọ, tâm và pháp. Cứ nghĩ tới bốn điều này để mình biết rõ khi thân tứ đại chấm dứt hoạt động thì tứ đại trả về tứ đại. Sống là con người, nhưng chết trở về cát bụi. Đây là ý niệm chết là hết, không còn gì nữa. Nhưng đối với người tu Thanh văn, chết chỉ bỏ thân xác thôi, anh linh mình vẫn còn, nên chết không phải là chấm dứt tất cả.
Như vậy, người tu Thanh văn thừa đắc quả La-hán chủ động được cuộc sống và chủ động được cái chết của họ, nên sống trên cuộc đời này, họ không buồn giận, lo sợ. Và họ có trí tuệ biết mình đang sống trong xã hội nào, trong hoàn cảnh nào, sống như thế nào để được an ổn nhất. Từ đó, dù sống trong giàu sang, sung sướng, hay nghèo khổ, họ cũng bình thường, nghĩa là họ không lệ thuộc vật chất. Tiến tu một bước nữa, họ không lệ thuộc tình cảm là không có những ham muốn, buồn phiền, bực tức.
Người sống tự tại, vượt ngoài sự chi phối của vật chất và tình cảm thì hiểu biết mới sáng dần ra. Vì vậy, Phật nói tham, sân, si là ba cái chính của tâm con người vô hình, chứ không phải chỉ đơn thuần là của con người vật chất. Vì con người vật chất là công cụ của con người vô hình. Phật dạy rằng ý làm chủ, tâm làm chủ. Thực tế, khi xét xử người phạm tội, người ta luôn căn cứ trên việc cố ý phạm tội, hay vô tình phạm tội.
Trong đạo Phật, quan trọng nhất là ý. Tội của thân và của miệng, tức thân nghiệp và khẩu nghiệp thì mình chết, nó hết, nhưng ý nghiệp thì chết mang theo. Phật tử nên nhớ trong ba nghiệp, tu ý nghiệp là chính. Ý nghiệp có nhiều, nhưng tham, sân, si là chủ yếu.
Cái gốc của nghiệp do vô minh là si mê mà sinh ra. Và vô minh do người đó ngu thiệt, hay họ bị tham, sân tác động thì sự hung dữ hay tham lam thường hiện ra trên nét mặt họ. Chúng ta bình tĩnh nhìn mặt họ, thấy liền biết họ là người tham, hay người dễ nổi nóng.
Trong đạo Phật, quan trọng nhất là ý. Tội của thân và của miệng, tức thân nghiệp và khẩu nghiệp thì mình chết, nó hết, nhưng ý nghiệp thì chết mang theo. Phật tử nên nhớ trong ba nghiệp, tu ý nghiệp là chính. Ý nghiệp có nhiều, nhưng tham, sân, si là chủ yếu.
Ma nhìn biết người tham. Phật nhìn cũng biết người tham, nhưng cách hành xử của ma và Phật khác nhau. Ma biết người tham thì nó mua chuộc, lợi dụng để trở thành công cụ của nó, phục vụ cho mưu đồ của nó. Thí dụ người làm ăn gian dối, ta coi đó là ma tham. Cho nên, ma coi người nào tham, nó mới tới dụ. Vì gốc của nó là tham, nó mới tìm người tham để dụ. Người không tham, làm sao nó dụ được.
Phật nói rằng người tham thì mất khôn là si mê. Hai là si mê do gốc của nó, gọi là vô minh. Người này không ai dụ dỗ họ, không ai kích động họ, nhưng họ vẫn có ý nghĩ ác xấu thì gốc của họ là từ vô minh, gọi là ác ma.
Với người vô minh, hay si mê do người ta tác động, thí dụ như người được gọi là liêm sĩ thì ai động tới, họ dễ tự ái, ma liền tìm tới kích động họ.
Nhưng mình không tham lam, không ham muốn, không bực tức, mà biết họ chọc tức, kích động mình, mình có khởi lên niệm xấu hay không.
Phật dạy rằng nếu tự xét thấy lòng mình còn bực tức, còn tham lam, là con ma sân, con ma tham còn ở trong lòng mình, nên mình là ma, ma này là ma bực tức, ma tham. Không phá được hai con ma này, không bao giờ ra khỏi sanh tử.
Đức Phật nói giữ hai con ma này trong lòng mình, dù có tạo bao nhiêu phước đức, hai con ma này cũng phá cho tiêu hết. Một đốm lửa sân nhỏ thiêu đốt hết một rừng công đức. Mình tu cả đời trong sạch, nhưng khi nổi giận, mất khôn rồi, mình làm sai trái thì hiện ra nguyên tướng tội lỗi.
Cho nên, trên bước đường tu, nhiều người tốt mà biến thành xấu. Vì tu giữ giới kỹ quá, không có lỗi lầm gì, nhưng bị người ta chọc tức, tự ái nổi lên. Thực tế cho thấy đôi khi người tội lỗi mà mình mắng họ, họ không giận, vì họ tội lỗi ngập đầu thì có thêm tội nữa cũng chẳng ăn thua gì với họ. Nhưng người tốt, động họ một cái là họ dễ nổi giận.
Hồi nhỏ, tôi học với Hòa thượng Vạn Đức. Khi ông cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền là Hội trưởng hội Phật học Nam Việt lên thăm Hòa thượng, tôi đứng hầu bên cạnh, nghe ông thưa với Hòa thượng rằng các thầy ngồi lần chuỗi thấy hiền, nhưng khi động chuyện, nổi nóng không ai bằng.
Nghe vậy, tôi tự suy nghĩ lại mình tu, có ai động tới mình đâu nên mình không nổi nóng. Nhưng không ai động tới mình, chấp ngã lên cao quá, tự cho mình trong sạch, mình là nhất, hễ người nào vô lễ, mình nổi nóng liền. Cả đời mình làm tốt thì không ai biết, nhưng một lần làm xấu, người ta đồn ra, công đức mình tiêu tan.
Một anh Phật tử đến thăm, tôi hỏi anh còn đi bố thí không. Anh nói con không bố thí nữa. Vì anh bỏ công, bỏ của làm được việc mà không ai làm được. Nhưng bị người kích động, nói bố thí là lợi dụng quyên góp của người, mà chỉ cho một phần thôi, còn một phần để làm riêng. Bị chỉ trích như vậy, anh tự ái, không làm nữa.
Đức Phật dạy rằng tạo công đức thì khó, mình đừng để cho mất, thiếu công đức, tu khó lắm. Vì công đức là mối dây liên hệ giữa mình với Phật và Bồ-tát. Phật và Bồ-tát sống với công đức mà các Ngài tu tạo. Mình có công đức mới liên hệ được với Phật và Bồ-tát và các Ngài mới gia trì cho mình được. Giữa mình với Phật và Bồ-tát liên hệ qua lại bằng công đức, nên người có công đức mới được Phật hộ niệm, mình mới tạo thêm nhiều công đức nữa.
Thật vậy, nhìn kỹ mình thấy có người làm được bao nhiêu công đức trên cuộc đời này, còn mình một việc nhỏ cũng không làm được. Nghĩ như vậy, mình ganh tức nói xấu người ta, sẽ bị đọa.
Đức Phật dạy rằng tạo công đức thì khó, mình đừng để cho mất, thiếu công đức, tu khó lắm. Vì công đức là mối dây liên hệ giữa mình với Phật và Bồ-tát. Phật và Bồ-tát sống với công đức mà các Ngài tu tạo. Mình có công đức mới liên hệ được với Phật và Bồ-tát và các Ngài mới gia trì cho mình được. Giữa mình với Phật và Bồ-tát liên hệ qua lại bằng công đức, nên người có công đức mới được Phật hộ niệm, mình mới tạo thêm nhiều công đức nữa.
Nếu người làm từ thiện với tâm tốt thực sự, chắc chắn họ được Bồ-tát gia bị. Thí dụ Phật gởi tiền cho tôi để tôi mang đến cho người nghèo. Tôi đi cho, nhưng tiền đâu phải là của tôi. Cái gốc là công đức của Phật, mình nương công đức của Phật để mình tu. Công đức của Phật mà mình đem cho người là Phật cho, không phải mình cho. Mình chỉ có công thôi, nhưng có công, mình cũng được hưởng một phần nhỏ là người được cho, họ cũng quý mình, thương mình, họ coi mình là bạn. Nếu mình không nhìn nhận đúng như vậy, mà nói rằng của mình cho là phạm tội gian tham thì mất công đức, không làm việc thiện được nữa.
Thật vậy, tôi quan sát một số nhà từ thiện làm cũng tốt, nhưng vì tâm không tốt, nên họ chỉ làm được một lúc thôi. Họ nói không làm nữa vì không có điều kiện làm. Nói đúng hơn, Phật không hộ niệm nữa, hay không được người ủng hộ nữa. Hoặc người tin mình, đưa tiền cho mình làm từ thiện, nhưng mình làm sai trái, khiến họ không sanh phước đức, còn bị khánh tận, làm sao họ giúp nữa. Vì thế, mình làm gì phải quan sát xem hậu vận của nó như thế nào.
Trên bước đường tu, muốn ra khỏi luân hồi thì cắt đứt mấy việc này, không làm nữa, không liên hệ với mọi người để khỏi vướng bận tình cảm. Chính vì lý này, Phật dạy các Tỳ-kheo không xin cơm một nhà hai lần để cắt đứt liên hệ với mọi người và cắt đứt liên hệ tình cảm, đi thẳng một mạch ra khỏi sanh tử luân hồi là Thanh văn thừa.
Nhưng nếu mình tu Đại thừa theo Pháp hoa gọi là Nhứt thừa, hay Nhứt Phật thừa, Phật nói khi mình phát tâm Bồ-đề đều là Bồ-tát, nên không đi qua con đường Thanh văn, Duyên giác, mà đi thẳng vào Phật đạo, cho nên Nhứt thừa gọi là Phật thừa.
Mình tu Phật thừa, đi theo con đường duy nhất để cuối cùng thành Phật. Nhưng quan trọng nhất muốn làm như vậy, phải nương thiện tri thức. Nếu không có thiện tri thức, không có người tốt giúp đỡ, không có Phật hộ niệm, người này không thể tu được. Vì tu Nhứt Phật thừa, mình phát tâm với Đức Phật, hướng về Đức Phật mà đi. Và đi tới Đức Phật được là nhờ chung quanh mình có các bậc thiện tri thức giúp đỡ.
Vì vậy, Phật tử tu Bổn môn Pháp hoa, phần đầu của kinh, mình lạy tất cả các Đức Phật quá khứ, lạy tất cả các Đức Phật mười phương, lạy tất cả các Bồ-tát trong hội Pháp hoa, lạy tất cả các Bồ-tát vô hình tùng địa dũng xuất và cuối cùng mình còn lạy tất cả các vị Hộ pháp thiện thần.
Mình tu có quan hệ mật thiết với tất cả chư vị như vậy, nhờ các Ngài ủng hộ mình và với niềm tin mãnh liệt này sẽ được Phật gia hộ cho mình, các Bồ-tát, các Thánh tăng trợ lực giúp mình tiến tu nhẹ nhàng.
Và phát tâm Bồ-đề, phải nhớ điều đầu tiên Phật dạy là quy y Tam bảo. Nếu không quy y Tam bảo mà nói rằng mình là người tốt, ăn hiền ở lành không cần đi chùa quy y. Mình không cần quy y cũng không ai bắt mình, thì mình cũng không cần ai giúp đỡ mình.
Vì quy y Phật là mình nương với Đức Phật, nhờ Đức Phật gia hộ cho mình. Lực gia hộ của Phật rất quan trọng. Thật vậy, khi việc khó khăn quá, không giải quyết được, tôi thường ngồi yên nghĩ tới Phật, tự nhiên trí sáng dần ra, giúp mình không mắc sai lầm trong cuộc đời. Còn mình không nương Phật, nói không cần Phật, làm sao Phật giúp mình được.
Và quy y Pháp là mình phải sống đúng với Pháp của Phật. Pháp chia làm hai, nếu mình sống không vi phạm luật pháp Nhà nước không bao giờ bị tù tội. Ngoài ra, mình không phạm luật pháp của tự nhiên không bao giờ mình đọa. Vì vậy, Phật dạy giới luật có tánh giới và tướng giới. Tánh bên trong quan trọng hơn.
Quy y Phật là mình nương với Đức Phật, nhờ Đức Phật gia hộ cho mình. Lực gia hộ của Phật rất quan trọng. Thật vậy, khi việc khó khăn quá, không giải quyết được, tôi thường ngồi yên nghĩ tới Phật, tự nhiên trí sáng dần ra, giúp mình không mắc sai lầm trong cuộc đời. Còn mình không nương Phật, nói không cần Phật, làm sao Phật giúp mình được.
Tánh là chân lý không thay đổi. Thí dụ giết người chết phải đền mạng. Phật dạy bốn tội: sát, đạo, dâm, vọng là tánh giới, là cái gốc. Phật tử tại gia, chư thiên và các thầy xuất gia đều không được phạm bốn tội này. Luật pháp ở trên đời có thể thay đổi, còn phạm bốn tội này thì không thoát được, vì đã tạo thành nghiệp ác mang theo qua đời sau.
Cho nên trong đời trước, mình lỡ phạm một lời nói với người, đời này tái sanh, họ thấy mình là họ đòi cái nợ cũ. Vì thế, ta quan sát xem trên đời này ai là người tốt với mình, ai là người xấu với mình. Nếu là người tốt với mình, mình biết mối quan hệ giữa mình và họ đời trước đã tốt, nên bây giờ nhìn thấy nhau là có thiện cảm liền.
Khi qua Nhật Bản, mới xuống phi trường, tôi gặp ông cụ Ito lớn tuổi, còn tôi nhỏ tuổi. Ông nói một câu dễ thương rằng không phải ông mới gặp tôi lần đầu tiên, ông cảm giác đã quen biết tôi từ thời Phật Thích Ca. Tôi coi Hòa thượng này là thiện tri thức đã giúp đỡ tôi lúc tôi tu học ở Nhật cho đến khi ngài viên tịch. Tôi đem hình ngài về chùa Huê Nghiêm thờ. Điều này thể hiện rõ nét sự quen biết nhau, quý trọng nhau từ đời trước, nên đời này thấy nhau, tình “Linh sơn cốt nhục” tiếp tục sâu đậm một cách tự nhiên. Nhưng cũng có người thấy mình, họ ghét liền, muốn gây sự, mình biết đây là nghiệp đời trước. Ý thức như vậy, điều căn bản trên bước đường tu, mình xóa ác nghiệp cũ, tạo thiện nghiệp mới.
Thứ ba, quy y Tam bảo là quy y Hiền tăng, Thánh tăng. Hiền tăng có hạnh đức và hiểu biết hơn mình. Họ đã chứng Tu-đà-hoàn, không lệ thuộc ăn uống, ngủ nghỉ và không lệ thuộc tình cảm ủy mị của xã hội thì mình nên theo. Còn người hở là buồn, hở là giận, không nên theo.
Khi Đức Phật vào Niết-bàn, Phật giao cho Đại Ca-diếp lãnh đạo Tăng đoàn. Ngài tập hợp năm trăm vị La-hán để kiết tập kinh điển. Chỉ có ngài A-nan nhớ hết kinh điển của Đức Phật để trùng tuyên lại.
Sau lần kiết tập này, ngài Đại Ca-diếp mới giao trách nhiệm lãnh đạo Tăng đoàn cho ngài A-nan. Vì ngài Ca-diếp đắc đạo, sống trong định nhiều hơn là sống trong đời này, mọi người trên đời khó giao tiếp với ngài, khó hiểu biết được ngài.
Cho nên ngài A-nan mới là người giữ gìn tạng pháp của Như Lai. Muốn học, muốn hiểu gì, phải thưa với ngài A-nan, ngài mới dạy mình được. Còn ngài Ca-diếp trụ trong định, làm sao dạy được.
Ngài Ca-diếp học với Phật cái gì? Phật đưa cành hoa sen lên, không nói và Ca-diếp mỉm cười. Chỉ có mỉm cười mà Phật phú pháp cho ngài Ca-diếp. Đây là pháp quan trọng ở trong thiền, nhưng pháp này đối với chúng ta khó thực hành lắm. Người phải có chiều sâu, ở trong thiền định mới gặp được tâm, gọi là thầm hiểu ở trong lòng, không dùng ngôn ngữ. Sự giao tiếp bằng tâm linh vô cùng quan trọng, mới truyền được pháp cho ngài A-nan.
Và ngài A-nan giữ pháp ở hai mặt. Với người có tâm hồn thanh tịnh, ngài truyền sự thanh tịnh đó. Còn người không có tâm hồn thanh tịnh, không tu được pháp trực ngộ bản tâm thì ngài mở ra giáo môn là dạy học kinh. Như vậy, ngài A-nan dạy kinh và dạy thiền.
Người tâm thanh tịnh tới, bắt được tâm thanh tịnh của ngài A-nan, ngài truyền pháp đó cho họ. Cũng giống như Xá-lợi-phất gặp Phật, tâm thanh tịnh của Xá-lợi-phất tiếp nhận được tâm thanh tịnh của Phật, Phật mới nói “thiện lai Tỳ-kheo” thì Xá-lợi-phất liền đắc quả La-hán, đây là bậc thượng căn, thượng trí. Còn những người khác là hàng trung, hàng hạ phải đi theo giáo môn phải học mới biết và muốn học phải học với A-nan.
Khi A-nan truyền pháp lại, ngài truyền cho Ưu-ba-cúc-đa là người hiểu được ngài thì vị này lìa giáo môn, đi vào thiền môn. Và sự tu chứng của các ngài qua tâm pháp như vậy vượt ngoài sự hiểu biết của mọi người.
Tuy nhiên, mặc dù không biết được pháp của các ngài, mà mình có duyên gặp được người thực tu, thực chứng, mình dễ sanh tâm kính trọng. Họ có lực vô hình gọi là từ trường. Tâm từ của họ đến với mình, khiến mình cảm thấy nhẹ nhàng. Thực tế khi Phật tử tới chùa, gặp một vị thầy tu mà tâm mình thấy an lành, mát mẻ, mình biết vị này có sở đắc riêng.
Điển hình như ngài Ưu-ba-cúc-đa, ai cũng muốn thỉnh ngài tới để cúng dường, nhưng ngài không bao giờ đi. Lúc đó có bà đại thí chủ thường cúng dường, cho đến khi bà bị khánh tận. Vì đời trước bà có chút xíu phước, đời này gặp Phật pháp, nhưng tu sai, mất phước, bị đọa. Khi bà mắc bệnh nan y, người ta bỏ bà ở bãi tha ma, chờ chết. Bấy giờ, ngài Ưu-ba-cúc-đa mới tới. Bà thấy ngài liền khóc và nói hồi đó con giàu có, thỉnh thầy hoài mà thầy không bao giờ tới, cũng không bao giờ nhận sự cúng dường của con. Bây giờ thấy thầy, con không còn gì để cúng, con khổ quá.
Ngài nói bà còn một cái rất quý, bà ráng giữ và nên trân trọng. Đó là bà còn niềm kính tín Tam bảo. Vì bây giờ bà nhìn thấy tôi mà sanh tâm kính trọng, muốn cúng thì phước bà sẽ sanh ra. Khi mãn phần, bà sẽ sanh lên cõi trời. Giờ chót còn chút phước đó, chỉ khởi tâm tốt thôi, vì chết thì cái tâm đi, cái xác bỏ lại.
Có thể nói từ cư sĩ bình thường, quy y Hiền Thánh tăng để quý vị nương tựa, đi lên, được giải thoát, gọi là Nhứt Phật thừa, không kinh qua con đường Thanh văn và Duyên giác. Nghĩa là các Phật tử không xuất gia, nhưng thực hiện đúng đắn lời Phật dạy cho cư sĩ cũng chứng được Sơ quả, Nhị quả, Tam quả.
Chứng được Sơ quả, hành giả không ham muốn, nhưng cuộc sống luôn an vui, tự tại và phước báu của họ vẫn đầy đủ. Phật nói rằng phước báu và đức hạnh bên trong mới quan trọng. Có đức hạnh thì được người kính trọng. Có phước báu thì giàu có. Giống ông Cấp Cô Độc thời Phật tại thế, ông không ham muốn nhưng ông vẫn giàu và ông thường làm phước. Ông tên Cấp Cô Độc vì ông nuôi người già yếu mà không ai nuôi.
Ông có tánh tốt như vậy thì ma Ba-tuần tới phá. Quý vị tu nên biết mình tốt sẽ có người xấu ghét hại mình, nhưng quyết tâm tu, mình sẽ vượt qua được hết các chướng nạn.
Bà ma Ba-tuần có thần thông, hóa ra trận bão tố nhận chìm đoàn tàu thương buôn của ông Cấp Cô Độc làm của cải ông mất hết.
Bà bảo Cấp Cô Độc đừng cúng dường Phật nữa, bà sẽ giúp ông giàu có. Cấp Cô Độc trả lời ông không cần giàu có, ông cần phước đức, nên thích làm việc phước đức. Thôi, bà đi đi. Bà ác ma này ở trước cửa nhà Cấp Cô Độc, khi bị đuổi đi, bà đến xin Phật bảo Cấp Cô Độc cho bà ở. Phật nói với Cấp Cô Độc hãy cho bà tiếp tục ở. Và Phật nói với ác ma rằng bà muốn ông cho ở thì phải trả lại tất cả của cải mà bà đã nhận chìm để hại ông.
Với phước báu vô lượng, tiền của Cấp Cô Độc bố thí mãi không hết, giúp đỡ bao nhiêu người nhưng không bao giờ cạn kiệt. Dù ông còn là cư sĩ, trong hiện đời này, ông chưa xuất gia mà đã chứng được Tam quả A-na-hàm. Cho nên, hàng cư sĩ nương theo pháp Phật tu vẫn chứng được Sơ quả cho đến Tam quả.
Chứng Sơ quả, không lệ thuộc tiền của, ăn uống, tài sản, như Cấp Cô Độc rất giàu có, nhưng tài sản này không ràng buộc ông, gia đình cũng không ràng buộc ông. Gia đình hết lòng kính trọng ông, vì ông tốt thực sự. Và những người làm việc cho ông, ông cũng hết lòng thương họ, nên họ dốc hết công sức làm cho ông để ông có thì giờ đi chùa, đi bố thí. Với sự hợp tác nhiệt tình của nhiều người như vậy làm cho ông càng giàu thêm. Cho nên ông không quan tâm tiền của, nhưng tiền của không mất. Những người ác xấu lao đầu kiếm tiền, nhưng tiền vô cửa trước, ra cửa sau.
Ông bị ác ma hại, phá sản mấy lần, nhưng ông vẫn giàu có, vì ông tu tạo phước đức. Có tiền thì ông bố thí, không có cũng không sao, ông vẫn thanh thản.
Phật tử tại gia hãy tập cho được hạnh đó. Mình giúp đỡ người và người thương quý mình thì Phật dạy rằng tuy còn tại gia, nhưng tâm đã ra khỏi sanh tử, chứng được Sơ quả. Và từ Sơ quả, mình cố gắng làm hai việc là trả nghiệp cũ và không tạo nghiệp mới.
Đa số người đời trả nghiệp cũ ít, mà tạo nghiệp mới nhiều, nên mỗi ngày khổ thêm và đời sau khổ thêm nữa.
Ta tu trả nghiệp cũ, không tạo nghiệp mới, nghĩa là dù hôm nay họ nói xấu mình, nhưng ngày mai, họ sa cơ thất thế cần mình giúp đỡ, mình cũng sẵn lòng giúp họ. Phật dạy điều này trong kinh Bát đại nhân giác rằng quên điều lỗi cũ, thương phần khổ đau. Hôm qua họ có lỗi, nhưng hôm nay họ đói, thấy tội nghiệp quá, mình cho họ thức ăn, không phải mình nhớ họ đã ác với mình mà bỏ mặc họ, không thèm giúp.
Làm được việc tốt với người phá hại mình thì tiến lên Nhị quả. Nhiều khi các thầy đi tu nhưng không quên được lỗi cũ của người chống phá mình, gọi là “sống để dạ, chết mang theo”, điều này rất nguy hiểm.
Tất cả những gì ai làm xấu cho mình, mình quên hết, bỏ hết. Còn người làm tốt, mình cứ nhớ nghĩ tới cái tốt để mình trả ơn. Nghĩ tới thương hại người khổ đau để mình giúp đỡ.
Sống trên cuộc đời, mình làm tất cả mọi việc thiện lành, nhưng làm rồi, xả hết những việc này. Không còn gì dính líu trong lòng làm vướng bận tâm trí thì tối đến, thảnh thơi đi vào giấc ngủ yên lành, rong chơi cảnh giới chư thiên, hay thâm nhập Tịnh độ của chư Phật, chư Bồ-tát, tùy theo phước đức nhân duyên mà mình đã tu tạo được.