Vedanā & Bốn sự thật cao quý

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
0:00 / 0:00
0:00

Bốn sự thật cao quý (Tứ diệu đế) là cốt lõi giáo lý của Đức Phật

Trong Tăng chi bộ kinh, Đức Phật dạy:

“Này các thiền giả, đối với những người trải nghiệm cảm giác, Ta dạy sự thật về khổ, Ta dạy sự thật về sự sinh khởi của khổ, Ta dạy sự thật về sự chấm dứt khổ và Ta dạy sự thật về con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ.”1

Trong đoạn văn này, Đức Phật tuyên bố rõ ràng rằng Tứ diệu đế chỉ có thể được hiểu, nhận thức và thực hành thông qua kinh nghiệm về vedanā (cảm giác).

Ngài phân tích sâu hơn về các sự thật cao quý dưới ánh sáng của vedanā bằng cách nói:

“Bất cứ cảm giác nào mà người ta trải nghiệm, tất cả đều là khổ.”2

Không chỉ dukkha vedanā (khổ thọ/ cảm giác khó chịu) là khổ, mà cả sukha vedanā (lạc thọ/ cảm giác dễ chịu) và adukkhamasukha vedanā (bất khổ bất lạc thọ/ cảm giác trung tính) cũng là khổ, vì tính chất vô thường của chúng. Sinh và diệt, anicca (vô thường) là đặc tính của vedanā. Mọi cảm giác dễ chịu cũng đều có mầm mống đau khổ trong đó vì sớm hay muộn nó cũng sẽ qua đi. Chúng ta bị vô minh ràng buộc đến mức khi một cảm giác dễ chịu xuất hiện, chúng ta phản ứng lại bằng cách phát triển lòng tham ái và bám víu vào nó mà không nhận ra bản chất thực sự là vô thường của nó. Điều này dẫn đến đau khổ: tanha dukkhassa sambhavam – tham ái là nguồn gốc của đau khổ.3

Mọi cảm giác dễ chịu cũng đều có mầm mống đau khổ trong đó vì sớm hay muộn nó cũng sẽ qua đi. Chúng ta bị vô minh ràng buộc đến mức khi một cảm giác dễ chịu xuất hiện, chúng ta phản ứng lại bằng cách phát triển lòng tham ái và bám víu vào nó mà không nhận ra bản chất thực sự là vô thường của nó. Điều này dẫn đến đau khổ: tanha dukkhassa sambhavam – tham ái là nguồn gốc của đau khổ.

Tham ái không chỉ là nguồn gốc của đau khổ mà chính nó là đau khổ. Khi tham ái phát sinh, đau khổ phát sinh. Đức Phật đã giải thích sự thật thứ hai trong Tứ diệu đế không phải là tanha-paccaya dukkha (tham ái tạo điều kiện cho đau khổ) mà thay vào đó là dukkha-samudaya (sinh khởi đau khổ). Nói cách khác, tham ái không chỉ đơn thuần là điều kiện tiên quyết của đau khổ; bản thân nó không thể tách rời khỏi đau khổ. Sự nhấn mạnh tương tự cũng được thể hiện rõ ràng trong câu tanha dukkhassa sambhavam. Thật vậy, tanhadukkhasahajata (đồng sanh). Ngay khi tham ái khởi lên, người ta mất thăng bằng trong tâm, trở nên bị kích động và trải nghiệm khổ đau.

Tương tự như vậy, khi vedanā phát sinh và tạo ra tanha, đó là dukkha. Vì vậy, bất cứ khi nào thuật ngữ vedanā được sử dụng liên quan đến việc thực hành giáo pháp (Dhamma), nó đều mang ý nghĩa dukkha. Ngay cả một cảm giác trung tính cũng là dukkha nếu bản chất vô thường của nó bị bỏ qua (không chú ý). Vì vậy, không chỉ đối với dukkha vedanā (khổ thọ) mà cả sukha vedanā (lạc thọ) và adukkhamasukha vedanā (bất lạc, bất khổ thọ) nữa, Đức Phật đã sử dụng chính xác từ vedanā như một từ đồng nghĩa với dukkha.

Nhấn mạnh sự thật này một lần nữa liên quan đến Tứ diệu đế, Đức Phật đã nói trong “kinh Dvayatana” của Kinh Tập (Suttanipata):

“Bất cứ đau khổ nào phát sinh đều là do cảm giác – đây là anupassana đầu tiên (quán niệm hay quán chiếu hay quan sát). Với sự chấm dứt hoàn toàn của cảm giác, đau khổ sẽ không còn phát sinh nữa – đây là anupassana thứ hai.”4

Anupassana đầu tiên là sự quan sát thường xuyên vedanā như là dukkha. Anupassana thứ hai bao gồm thực tại nằm ngoài phạm vi của vedanā cũng như ngoài phạm vi của phassa (xúc) và salayatana (sáu căn môn hay lục nhập, tức là sáu giác quan). Đây là giai đoạn nirodha-samapatti của một vị A-la-hán (người hoàn toàn giải thoát), chứng nghiệm Niết-bàn. Bằng anupassana thứ hai này, hành giả nhận ra sự thật rằng trong lĩnh vực nirodha-samapatti, không có dukkha, bởi vì không có vedanā. Đó là lĩnh vực vượt ra ngoài phạm vi của vedanā.

Đức Phật tiếp tục dạy trong bài kinh đó:

“Bất cứ cảm giác nào người ta trải nghiệm trong thân, dễ chịu, khó chịu hay trung tính, bên trong hay bên ngoài, tất cả đều là đau khổ, tất cả đều là huyễn tưởng, tất cả đều phù du. Một thiền sinh quan sát thấy rằng bất cứ nơi nào có sự tiếp xúc trong thân, các cảm giác mất đi (ngay khi chúng phát sinh). Nhận ra sự thật này cùng với sự diệt mất của các cảm giác, hành giả thoát khỏi tham ái, giải thoát hoàn toàn.”5

Một người hoàn toàn vững vàng trong sự thật này sẽ được giải thoát khỏi thói quen tham ái và bám víu vào các cảm giác và đạt đến trạng thái không còn vedanā (vedanā-khaya). (Đây là giai đoạn Niết-bàn đạt đến trong anupassana thứ hai). Một thiền giả đã trải qua trạng thái arahatta-phala này sẽ thoát khỏi mọi ham muốn (nicchato). Người như vậy sẽ hoàn toàn giải thoát (parinibbuta).

Một đệ tử của Đức Phật, với sự tập trung, ý thức, và thường xuyên hiểu biết thấu đáo về vô thường, bằng trí tuệ, biết các cảm giác, sự sinh khởi, sự chấm dứt của chúng và con đường dẫn đến sự chấm dứt của chúng. Một thiền giả đã đạt đến mức cuối cùng (đã trải nghiệm toàn bộ phạm vi) các cảm giác (và đã vượt qua) sẽ thoát khỏi tham ái, hoàn toàn giải thoát.

Do đó, để trải nghiệm và hiểu dukkha-sacca (sự thật về khổ), samudaya-sacca (sự thật về sự phát sinh của khổ), nirodha-sacca (sự thật về sự chấm dứt của khổ) và dukkha-nirodha-gamini-patipada-sacca (sự thật về con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ), người ta phải làm việc với các cảm giác và chứng nghiệm sự thật về vedanā (vedanā-sacca), sự thật về sự sinh khởi của vedanā (vedanā-samudaya-sacca), sự thật về sự chấm dứt của vedanā (vedanā-nirodha-sacca) và sự thật về con đường dẫn đến sự chấm dứt của vedanā (vedanā-nirodha-gamini-patipada-sacca).

Tiến trình này được mô tả rõ ràng trong Samadhi Sutta của vedanā-samyutta:

“Một đệ tử của Đức Phật, với sự tập trung, ý thức, và thường xuyên hiểu biết thấu đáo về vô thường, bằng trí tuệ, biết các cảm giác, sự sinh khởi, sự chấm dứt của chúng và con đường dẫn đến sự chấm dứt của chúng. Một thiền giả đã đạt đến mức cuối cùng (đã trải nghiệm toàn bộ phạm vi) các cảm giác (và đã vượt qua) sẽ thoát khỏi tham ái, hoàn toàn giải thoát.”6

Đức Phật còn nói thêm rằng mục đích của việc thực hành Bát chánh đạo là để hiểu vedanā và đạt đến trạng thái chấm dứt cảm giác (vedanā-nirodha):

Có ba loại cảm giác trên thân. Ba loại đó là gì? Những cảm giác dễ chịu, những cảm giác khó chịu và những cảm giác trung tính. Này các thiền giả, Bát chánh đạo cần được thực hành để có được tri thức hoàn chỉnh, sự chứng ngộ hoàn toàn, sự tận diệt dần dần và sự loại trừ ba loại cảm giác của thân này.7

Cảm giác (vedanā) là công cụ để chúng ta có thể thực hành Tứ diệu đế và Bát chánh đạo; và bằng cách nhận ra đặc tính của tuệ giác về vô thường (anicca-bodha), chúng ta giải thoát bản thân khỏi sự ràng buộc của vô minh (avijja) và tham ái (tanha) và thâm nhập vào sự thật tối hậu: Niết-bàn (nibbana), thoát khỏi đau khổ, một trạng thái vượt ra ngoài lĩnh vực vedanā, vượt ra ngoài lĩnh vực của cảm giác, vượt ra ngoài danh-sắc, hay tâm-thân (nama-rupa).

Chân Thông Chiếu dịch

Nguồn: The Importance of Vedanā and Sampajañña, A Seminar February 1990 Dhamma Giri, Igatpuri (Hội thảo tháng Hai, năm 1990 Dhamma Giri, Igatpuri, Ấn Độ), t.1.

------------------------------

1 Tăng chi bộ kinh 1.3.62

2 Trung bộ kinh 3.299

3 Kinh Tập 746

4 Như trên. 383

5 Kinh đã dẫn 743 - 744

6 Tương ưng bộ kinh 2.4.249

7 Như trên. 2.4.250

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày