[Ảnh] Thăm lại tổ đình Giác Lâm, Di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia

Tổ đình Giác Lâm tọa lạc tại số 118 Lạc Long Quân, P.Bảy Hiền, TP.HCM
Tổ đình Giác Lâm tọa lạc tại số 118 Lạc Long Quân, P.Bảy Hiền, TP.HCM
GNO - Tổ đình Giác Lâm (P.Bảy Hiền, TP.HCM) là một trong những ngôi chùa cổ nhất tại vùng đất Sài Gòn - Gia Định, có nhiều tư liệu quý báu về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc tôn giáo, được xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia ngày 16-11-1988.
Chùa Giác Lâm được thành lập năm 1744 do cư sĩ người Minh Hương tên Lý Thoại Long đứng ra xây cất. Ban đầu chùa là niệm Phật đường có tên là Sơn Can và Cẩm Đệm. Sau khi lập chùa, Lý Thoại Long giao cho thiền sư Phật Ý, lúc bấy giờ là trụ trì chùa Sắc tứ Từ Ân

Chùa Giác Lâm được thành lập năm 1744 do cư sĩ người Minh Hương tên Lý Thoại Long đứng ra xây cất. Ban đầu chùa là niệm Phật đường có tên là Sơn Can và Cẩm Đệm. Sau khi lập chùa, Lý Thoại Long giao cho thiền sư Phật Ý, lúc bấy giờ là trụ trì chùa Sắc tứ Từ Ân

Sau một thời gian, thiền sư Phật Ý giao cho đệ tử là thiền sư Viên Quang, thuộc thiền phái Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 36, dòng "Đạo Bổn Nguyên" về trụ trì. Từ năm 1774, khi Thiền sư Viên Quang về trụ trì chùa Cẩm Đệm, đã đổi tên thành chùa Giác Lâm
Sau một thời gian, thiền sư Phật Ý giao cho đệ tử là thiền sư Viên Quang, thuộc thiền phái Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 36, dòng "Đạo Bổn Nguyên" về trụ trì. Từ năm 1774, khi Thiền sư Viên Quang về trụ trì chùa Cẩm Đệm, đã đổi tên thành chùa Giác Lâm
Chùa có diện tích khoảng hơn 2ha, trải qua 2 lần trùng tu lớn vào những năm 1799-1804 và 1906-1909. Theo năm tháng, tuy cảnh quan ngôi chùa có phần biến đối, nhưng vẫn giữ lại các khu vực chính: khu tháp Ngũ gia tông phái, khu vực vườn chùa, khu vực tháp cổ và khu vực chùa chính
Chùa có diện tích khoảng hơn 2ha, trải qua 2 lần trùng tu lớn vào những năm 1799-1804 và 1906-1909. Theo năm tháng, tuy cảnh quan ngôi chùa có phần biến đối, nhưng vẫn giữ lại các khu vực chính: khu tháp Ngũ gia tông phái, khu vực vườn chùa, khu vực tháp cổ và khu vực chùa chính
Cổng tam quan chùa Giác Lâm được xây dựng vào năm 1955, gồm 3 lối vào. Mỗi cổng đều có mái che, lợp ngói, các đầu đao gắn hoa văn trang trí, diễm mái lá đề màu xanh thẫm nổi bật cạnh hàng ngói đỏ
Cổng tam quan chùa Giác Lâm được xây dựng vào năm 1955, gồm 3 lối vào. Mỗi cổng đều có mái che, lợp ngói, các đầu đao gắn hoa văn trang trí, diễm mái lá đề màu xanh thẫm nổi bật cạnh hàng ngói đỏ
Khu vực chùa chính nằm trong khuôn viên chữ nhật rộng 22m, dài 65m. Phía trước chùa có cổng Nhị quan được xây dựng vào giai đoạn 1939-1945, được xem như cổng chính của chùa. Cổng được dựng lên theo phong cách đặc biệt, độc đáo, có lẽ là cổng đặc biệt nhất so với các chùa ở Nam Bộ, cũng như cả nước
Khu vực chùa chính nằm trong khuôn viên chữ nhật rộng 22m, dài 65m. Phía trước chùa có cổng Nhị quan được xây dựng vào giai đoạn 1939-1945, được xem như cổng chính của chùa. Cổng được dựng lên theo phong cách đặc biệt, độc đáo, có lẽ là cổng đặc biệt nhất so với các chùa ở Nam Bộ, cũng như cả nước
Trước chánh điện có sân rộng, hình vuông, cạnh 16m, cao hơn mặt đất 1m, nền sân tráng xi-măng. Hai lớp rào bao quanh được xây dựng từ những năm 1900-1909
Trước chánh điện có sân rộng, hình vuông, cạnh 16m, cao hơn mặt đất 1m, nền sân tráng xi-măng. Hai lớp rào bao quanh được xây dựng từ những năm 1900-1909
Ngăn cách giữa cổng Nhị quan và sân chùa là cây bồ-đề được Đại đức Narada mang từ Sri Lanka tặng chùa vào năm 1953
Ngăn cách giữa cổng Nhị quan và sân chùa là cây bồ-đề được Đại đức Narada mang từ Sri Lanka tặng chùa vào năm 1953
Chùa có kiến trúc mặt bằng dạng chữ Tam (三), theo nhiều nhà nghiên cứu, cấu trúc này là sự biến thể từ dạng cấu trúc "Nội công ngoại quốc". Đây là sự kế thừa của khá nhiều chùa cổ ở miền Bắc. Sườn nhà cũng cho thấy có sự kết hợp của loại nhà rường ở miền Bắc và sườn nhà đâm trính cột kê ở miền Trung
Chùa có kiến trúc mặt bằng dạng chữ Tam (三), theo nhiều nhà nghiên cứu, cấu trúc này là sự biến thể từ dạng cấu trúc "Nội công ngoại quốc". Đây là sự kế thừa của khá nhiều chùa cổ ở miền Bắc. Sườn nhà cũng cho thấy có sự kết hợp của loại nhà rường ở miền Bắc và sườn nhà đâm trính cột kê ở miền Trung
Chánh điện có hành lang phía trước, hai bên tả hữu là hồi lang bao bọc kiến trúc gian này gần như vuông, chia làm 5 gian, kết cấu sườn mái kiểu tứ tượng (tứ trụ) và tỏa ra thành 8 phần mái dạng bát quái"
Chánh điện có hành lang phía trước, hai bên tả hữu là hồi lang bao bọc kiến trúc gian này gần như vuông, chia làm 5 gian, kết cấu sườn mái kiểu tứ tượng (tứ trụ) và tỏa ra thành 8 phần mái dạng bát quái"
Mái được kết hợp dạng 4 mái nhọn dần phía trên, còn gọi là dạng mái hình bánh ít. Mỗi đầu kèo ở hàng tư chùa đều tạc đầu rồng, trính đẽo lục giác, mái lợp ngói máng xối (âm dương). Hàng cột hai bên tả hữu chính điện được thay bằng lớp tường dày 30cm
Mái được kết hợp dạng 4 mái nhọn dần phía trên, còn gọi là dạng mái hình bánh ít. Mỗi đầu kèo ở hàng tư chùa đều tạc đầu rồng, trính đẽo lục giác, mái lợp ngói máng xối (âm dương). Hàng cột hai bên tả hữu chính điện được thay bằng lớp tường dày 30cm
Trong chùa có 98 cột chống đỡ, bên trong bài trí 113 pho tượng cổ, trong đó có 7 tượng đồng, 86 câu đối, 9 bao lam, 19 hoành phi và một số bàn thờ, đồ thờ cổ
Trong chùa có 98 cột chống đỡ, bên trong bài trí 113 pho tượng cổ, trong đó có 7 tượng đồng, 86 câu đối, 9 bao lam, 19 hoành phi và một số bàn thờ, đồ thờ cổ
Trải qua hai lần trùng tu lớn vào những năm 1798-1804 và 1900-1909, số tượng trong chùa Giác Lâm khá nhiều, do diện tích chùa được nới rộng, ngôi nhà to lớn hơn nên một số bộ tượng trong chùa như bộ Tây phương Tam thánh (ảnh), Thập bát La-hán, Thập Điện cũ tỏ ra không cân xứng, chùa đã cho tạo tác những tượng mới, kích thước to lớn hơn, để phù hợp với chùa
Trải qua hai lần trùng tu lớn vào những năm 1798-1804 và 1900-1909, số tượng trong chùa Giác Lâm khá nhiều, do diện tích chùa được nới rộng, ngôi nhà to lớn hơn nên một số bộ tượng trong chùa như bộ Tây phương Tam thánh (ảnh), Thập bát La-hán, Thập Điện cũ tỏ ra không cân xứng, chùa đã cho tạo tác những tượng mới, kích thước to lớn hơn, để phù hợp với chùa
Mười tám vị La-hán của chùa Giác Lâm như: Tôn Bỉnh, Đàm Trưởng, Hoa Viễn, Huệ Vĩnh, Đạo Danh, Đạo Tổ… được đặt tại hành lang, dọc hai bên chánh điện
Mười tám vị La-hán của chùa Giác Lâm như: Tôn Bỉnh, Đàm Trưởng, Hoa Viễn, Huệ Vĩnh, Đạo Danh, Đạo Tổ… được đặt tại hành lang, dọc hai bên chánh điện
Sau lưng chánh điện là bàn thờ Tổ; từ đó đến nay, chùa Giác Lâm trải qua 11 đời trụ trì: Tổ sư Phật Ý, Tổ tông Viên Quang (từ 1774 đến 1827), Tiên Giác Hải Tịnh (1827-1869), Minh Vi Mật Hạnh (1869-1873), Minh Khiêm Hoằng Ân (1873-1903), Như Lợi (1903-1910), Hồng Hưng Thạnh Đạo (1910-1949), Nhựt Dần Thiện Thuận (1949-1974), Lệ Sành Huệ Sanh (1974-1998), Hòa thượng Thích Huệ Trung (1998-2006), Thượng tọa Thích Từ Tánh (từ 2006 đến nay)
Sau lưng chánh điện là bàn thờ Tổ; từ đó đến nay, chùa Giác Lâm trải qua 11 đời trụ trì: Tổ sư Phật Ý, Tổ tông Viên Quang (từ 1774 đến 1827), Tiên Giác Hải Tịnh (1827-1869), Minh Vi Mật Hạnh (1869-1873), Minh Khiêm Hoằng Ân (1873-1903), Như Lợi (1903-1910), Hồng Hưng Thạnh Đạo (1910-1949), Nhựt Dần Thiện Thuận (1949-1974), Lệ Sành Huệ Sanh (1974-1998), Hòa thượng Thích Huệ Trung (1998-2006), Thượng tọa Thích Từ Tánh (từ 2006 đến nay)
Chánh diện nhà Tổ có ảnh các vị Tổ từ thế hệ 33 đến 41, các bài vị, bát hương được đặt rất trang trọng. Đặc biệt tại bàn Tổ còn đặt bài vị của người Minh Hương đã đứng ra dựng chùa
Chánh diện nhà Tổ có ảnh các vị Tổ từ thế hệ 33 đến 41, các bài vị, bát hương được đặt rất trang trọng. Đặc biệt tại bàn Tổ còn đặt bài vị của người Minh Hương đã đứng ra dựng chùa
Toàn bộ chùa có 23 bức hoành phi, đa số các bức hoành đều bằng gỗ gõ hoặc sơn mài
Toàn bộ chùa có 23 bức hoành phi, đa số các bức hoành đều bằng gỗ gõ hoặc sơn mài
Trong chùa có tất cả 9 bao lam, gồm 3 bao lam ở chính điện và 6 bao lam ở nhà Tổ
Trong chùa có tất cả 9 bao lam, gồm 3 bao lam ở chính điện và 6 bao lam ở nhà Tổ
Bao lam chủ yếu sử dụng hai phương pháp chính: hoàn chỉnh tác phẩm bằng nhát đục và áp dụng lối tế kiểu. Sử dụng nhát đục đối với những tác phẩm lớn, đặt xa tầm nhìn, ngược lại lối tế kiểu sử dụng ở tác phẩm được đặt gần người xem, ngay tầm nhìn
Bao lam chủ yếu sử dụng hai phương pháp chính: hoàn chỉnh tác phẩm bằng nhát đục và áp dụng lối tế kiểu. Sử dụng nhát đục đối với những tác phẩm lớn, đặt xa tầm nhìn, ngược lại lối tế kiểu sử dụng ở tác phẩm được đặt gần người xem, ngay tầm nhìn
Toàn bộ phù điêu chùa Giác Lâm được chạm nổi trên cột, trang trí cho cột và làm nổi bật các câu đối khắc chìm hoặc nổi trên thân cột. Các phù điêu đều có kỹ thuật chạm khắc tinh tế, mang tính cách điệu cao
Toàn bộ phù điêu chùa Giác Lâm được chạm nổi trên cột, trang trí cho cột và làm nổi bật các câu đối khắc chìm hoặc nổi trên thân cột. Các phù điêu đều có kỹ thuật chạm khắc tinh tế, mang tính cách điệu cao
Toàn bộ chùa có 86 câu đối được treo dưới dạng liễn hoặc khắc hẳn vào cột gỗ, làm nền trang hoàng cho phần bên trong chùa. Ngoài ra, tại cổng tam quan cũng có hai câu đối đắp nổi trên nền xi-măng
Toàn bộ chùa có 86 câu đối được treo dưới dạng liễn hoặc khắc hẳn vào cột gỗ, làm nền trang hoàng cho phần bên trong chùa. Ngoài ra, tại cổng tam quan cũng có hai câu đối đắp nổi trên nền xi-măng
Pháp khí là những phương tiện sử dụng trong nghi lễ, là những dấu ấn về sinh hoạt Phật giáo tại vùng đất Gia Định xưa
Pháp khí là những phương tiện sử dụng trong nghi lễ, là những dấu ấn về sinh hoạt Phật giáo tại vùng đất Gia Định xưa
Đại hồng chung được đúc vào năm 1894, bằng đồng, có đường kính 58cm. Mặt chuông cho biết được làm vào tháng 2 năm Giáp Ngọ, do Hòa thượng Minh Vi chứng minh và đệ tử Diệu Đạo, pháp danh Như Doanh, tự là Diệu Sùng phụng cúng
Đại hồng chung được đúc vào năm 1894, bằng đồng, có đường kính 58cm. Mặt chuông cho biết được làm vào tháng 2 năm Giáp Ngọ, do Hòa thượng Minh Vi chứng minh và đệ tử Diệu Đạo, pháp danh Như Doanh, tự là Diệu Sùng phụng cúng
Những hàng chén dĩa kiểu bằng sành sứ, với màu men xanh trắng, được cẩn dọc theo đầu hồi nhà, bên trong và cả bên ngoài cũng như trên vòm cửa ra vào, thể hiện được sắc thái của nghề gốm cổ truyền địa phương với màu men xanh trắng là chủ đạo
Những hàng chén dĩa kiểu bằng sành sứ, với màu men xanh trắng, được cẩn dọc theo đầu hồi nhà, bên trong và cả bên ngoài cũng như trên vòm cửa ra vào, thể hiện được sắc thái của nghề gốm cổ truyền địa phương với màu men xanh trắng là chủ đạo
Tranh kính xưa
Tranh kính xưa
Tháp Ngũ gia tông phái có tổng diện tích 603,79m, tường gạch, khung, sàn mái bê tông cốt thép, cẩn ngói, toàn tháp cao 32,7m.
Tháp Ngũ gia tông phái có tổng diện tích 603,79m, tường gạch, khung, sàn mái bê tông cốt thép, cẩn ngói, toàn tháp cao 32,7m.
Tầng dưới cùng đặt tượng Quán Âm Nam Hải. Bên trong an vị tượng Tây phương Tam thánh tư thế đứng cùng các bức ảnh của ngài Narada. Tầng hai tôn trí pho tượng Thích Ca Mâu Ni, tầng ba an vị tượng Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, tầng bốn có tượng Chuẩn Đề, tầng năm an vị tượng Di Lặc Tôn Phật, tầng sáu đặt tượng Trung Tôn giáo chủ và tầng cuối cùng là xá-lợi Phật trong tháp bằng vàng, tôn trí trên nóc tháp, xung quanh chạm chín con rồng chầu hầu
Tầng dưới cùng đặt tượng Quán Âm Nam Hải. Bên trong an vị tượng Tây phương Tam thánh tư thế đứng cùng các bức ảnh của ngài Narada. Tầng hai tôn trí pho tượng Thích Ca Mâu Ni, tầng ba an vị tượng Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, tầng bốn có tượng Chuẩn Đề, tầng năm an vị tượng Di Lặc Tôn Phật, tầng sáu đặt tượng Trung Tôn giáo chủ và tầng cuối cùng là xá-lợi Phật trong tháp bằng vàng, tôn trí trên nóc tháp, xung quanh chạm chín con rồng chầu hầu
Khu vực tháp Tổ là khu tháp chính của chùa. Đây là nơi đặt hài cốt của tất cả các vị đã trụ trì tại chùa Giác Lâm, đặt thẳng hàng, từ trong ra ngoài: tháp Tổ Viên Quang, Phật Ý, Minh Vi, Thiện Thuận, Minh Khiêm, Hồng Hưng
Khu vực tháp Tổ là khu tháp chính của chùa. Đây là nơi đặt hài cốt của tất cả các vị đã trụ trì tại chùa Giác Lâm, đặt thẳng hàng, từ trong ra ngoài: tháp Tổ Viên Quang, Phật Ý, Minh Vi, Thiện Thuận, Minh Khiêm, Hồng Hưng
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa là nơi trú ẩn khá an toàn cho các thầy hoạt động cách mạng. Thời gian này, một số Tăng sĩ ở chùa đã lên đường kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chùa là nơi nuôi chứa cán bộ, nơi hội họp của cấp ủy và có hầm bí mật đặt tại chùa Đức Lâm (P.Bảy Hiền, TP.HCM)
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa là nơi trú ẩn khá an toàn cho các thầy hoạt động cách mạng. Thời gian này, một số Tăng sĩ ở chùa đã lên đường kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chùa là nơi nuôi chứa cán bộ, nơi hội họp của cấp ủy và có hầm bí mật đặt tại chùa Đức Lâm (P.Bảy Hiền, TP.HCM)
Vào những năm đầu thế kỷ XX, trước giai đoạn xuất hiện các Hội Phật giáo đầu tiên ở Gia Định, chùa Giác Lâm là nơi tập hợp các Tăng sĩ có hoài bão muốn chấn chỉnh lại hoạt động Phật giáo. Dưới tên gọi "Lục Hòa liên xã", bắt đầu từ những cuộc gặp gỡ giữa các Tăng sĩ trong các ngày giỗ kỵ, tổ chức này dần dần lớn mạnh, là một trong những lực lượng tu sĩ được xem như nòng cốt cho việc thành lập phong trào chấn hưng Phật giáo sau này
Vào những năm đầu thế kỷ XX, trước giai đoạn xuất hiện các Hội Phật giáo đầu tiên ở Gia Định, chùa Giác Lâm là nơi tập hợp các Tăng sĩ có hoài bão muốn chấn chỉnh lại hoạt động Phật giáo. Dưới tên gọi "Lục Hòa liên xã", bắt đầu từ những cuộc gặp gỡ giữa các Tăng sĩ trong các ngày giỗ kỵ, tổ chức này dần dần lớn mạnh, là một trong những lực lượng tu sĩ được xem như nòng cốt cho việc thành lập phong trào chấn hưng Phật giáo sau này
Những năm 50-60 của thế kỷ XX, tổ đình Giác Lâm trở thành trụ sở của Giáo hội Phật giáo Cổ truyền (hậu thân của tổ chức Lục Hòa liên xã, Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật tử) là tổ chức Phật giáo thuộc hệ phái Bắc tông thời bây giờ
Những năm 50-60 của thế kỷ XX, tổ đình Giác Lâm trở thành trụ sở của Giáo hội Phật giáo Cổ truyền (hậu thân của tổ chức Lục Hòa liên xã, Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật tử) là tổ chức Phật giáo thuộc hệ phái Bắc tông thời bây giờ
Sau ngày giải phóng miền Nam (30-4-1975), sinh hoạt của chùa vẫn tiếp tục phát huy truyền thống nghi lễ cổ. Chùa là nơi đặt Văn phòng của Ban Đại diện Phật giáo Q.Tân Bình, theo hệ thống tổ chức của GHPGVN từ năm 1981
Sau ngày giải phóng miền Nam (30-4-1975), sinh hoạt của chùa vẫn tiếp tục phát huy truyền thống nghi lễ cổ. Chùa là nơi đặt Văn phòng của Ban Đại diện Phật giáo Q.Tân Bình, theo hệ thống tổ chức của GHPGVN từ năm 1981
Với bề dày lịch sử, chùa Giác Lâm được xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia theo Quyết định số 1288/VH/QĐ ngày 16-11-1988 của Bộ Văn hóa Thông tin
Với bề dày lịch sử, chùa Giác Lâm được xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia theo Quyết định số 1288/VH/QĐ ngày 16-11-1988 của Bộ Văn hóa Thông tin
Năm 1990, Hòa thượng Thích Huệ Sanh đã phối hợp cùng Sở Văn hóa - Thông tin, Phòng Văn hóa - Thông tin Q.Tân Bình và chuyên gia nghiên cứu Phật giáo lập lại hồ sơ về ngôi tổ đình Giác Lâm, tổ chức hội thảo khoa học tại chùa
Năm 1990, Hòa thượng Thích Huệ Sanh đã phối hợp cùng Sở Văn hóa - Thông tin, Phòng Văn hóa - Thông tin Q.Tân Bình và chuyên gia nghiên cứu Phật giáo lập lại hồ sơ về ngôi tổ đình Giác Lâm, tổ chức hội thảo khoa học tại chùa
Sau đợt lập lại hồ sơ, những sinh hoạt của chùa và tư liệu về chùa Giác Lâm từ ngày thành lập đến nay được lưu giữ trong hai quyển sổ lớn phục vụ khách tham quan trong, ngoài nước
Sau đợt lập lại hồ sơ, những sinh hoạt của chùa và tư liệu về chùa Giác Lâm từ ngày thành lập đến nay được lưu giữ trong hai quyển sổ lớn phục vụ khách tham quan trong, ngoài nước
Ban Quản trị chùa Giác Lâm vẫn duy trì tủ thuốc từ thiện...
Ban Quản trị chùa Giác Lâm vẫn duy trì tủ thuốc từ thiện...
... cùng các hoạt động từ thiện, giúp đỡ chia sẻ đến những hoàn cảnh khó khăn
... cùng các hoạt động từ thiện, giúp đỡ chia sẻ đến những hoàn cảnh khó khăn
Hiện nay, Lớp Sơ cấp Phật học Tân Bình đặt tại chùa Giác Lâm vẫn được tiếp tục hoạt động, đã đào tạo được 28 khóa, góp phần tạo điều kiện tốt cho Tăng Ni các nơi tham học trước khi chính thức bước vào Trường Trung cấp Phật học
Hiện nay, Lớp Sơ cấp Phật học Tân Bình đặt tại chùa Giác Lâm vẫn được tiếp tục hoạt động, đã đào tạo được 28 khóa, góp phần tạo điều kiện tốt cho Tăng Ni các nơi tham học trước khi chính thức bước vào Trường Trung cấp Phật học

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thừa tự pháp của thầy

Thừa tự pháp của thầy

GNO - Trong kinh Thừa tự pháp (Kinh Trung bộ, số 3), Đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
Cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu (1918-2012), Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh, Viện trưởng sáng lập Viện Nghiên cứu Phật học VN

Chiêm nghiệm pháp ngữ của Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu (1918-2012)

GNO - Tưởng niệm Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu (1918-2012), Giác Ngộ online trân trọng gửi đến bạn đọc các pháp ngữ là những lời chỉ dạy của ngài, để cùng chiêm nghiệm, nghĩ về một bậc cao Tăng, nhà giáo dục, đại dịch giả kinh điển Nikaya, nhà lãnh đạo tôn giáo và tác giả, bậc Thầy của nhiều thế hệ Tăng Ni.

Thông tin hàng ngày