Điều kiện sống, thế giới tự nhiên và hoàn cảnh xã hội không ngừng thay đổi. Con người cũng phải chịu cảnh già, bệnh, chết,... những thay đổi về thể chất; đời sống tinh thần khi dồi dào, lúc sa sút, buồn vui, yêu ghét, hạnh phúc khổ đau,… cũng thay đổi không ngừng. Chúng ta thấy hiện tượng sinh diệt (hình thành và mất đi), biến dị (đổi khác) diễn ra mọi lúc, mọi nơi một cách liên tục; thay đổi nơi thân, nơi tâm, nơi hoàn cảnh và nơi muôn loài vạn vật.
Có những biến đổi nhỏ ở mức độ vi mô, có những biến đổi lớn ở tầm vóc vĩ mô. Biến đổi lớn có thể thấy rõ qua những hiện tượng như thời tiết cực đoan, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng xã hội v.v… Và tất cả những điều này, trong nhận thức của con người nói riêng và chúng sinh phàm phu nói chung đều là vô thường, khổ (những bất toàn, không như ý gây ra cảm giác khó chịu, tâm lý bất mãn, sân hận).
Có thể tạm phân chia sự bình an ra làm ba phần là thân bình an, tâm bình an và hoàn cảnh bình an mặc dù trên thực tế giữa thân, tâm và hoàn cảnh có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong thế giới đối đãi nhị nguyên của chúng sinh phàm phu còn phân biệt, chấp thủ và tham ái, khi thân không bình an, hoàn cảnh không bình an thì tâm cũng chẳng thể bình an. Ngược lại, khi tâm không bình an sẽ dẫn đến những bất ổn nơi thân khiến thân cũng không an được.
Tâm bất ổn cũng tạo ra hoàn cảnh bất ổn. Thường thì con người quan tâm đến thân bình an, hoàn cảnh bình an nhiều hơn và ít quan tâm đến tâm bình an, đây là một thiếu sót rất lớn vì đôi khi thân an ổn, hoàn cảnh an ổn mà tâm bất an do bị phiền não, các tâm lý tiêu cực (lo lắng, sợ sệt, bất mãn, sân giận, nghi ngờ, ganh ghét, ham muốn khát khao…) chi phối.
Thân bình an là không bị bệnh tật, tai nạn, hiểm họa gây tổn hại đến thân thể, sức khỏe, tính mạng, không bị những biến cố gây bất ổn cho đời sống. Hoàn cảnh bình an là sự an ổn ở ba phương diện: gia đình, xã hội, thế giới và môi trường tự nhiên.
Nhưng cuộc đời vô thường là quy luật thì làm gì có chuyện an ổn vĩnh viễn, làm sao có thể bảo toàn mọi thứ? Con người chỉ có thể hạn chế những nhân duyên (các điều kiện, yếu tố) dẫn đến sự thay đổi theo chiều hướng xấu, gây ra bất an, đau khổ; đồng thời tạo thêm nhiều nhân tố bình an, hạnh phúc.
Mong muốn có sự trường cửu và vĩnh hằng, có được sự an ổn mãi mãi và toàn hảo ở nhiều phương diện là điều không bao giờ thành hiện thực. Chúng ta phải học tập cách chấp nhận vô thường và nhìn vô thường ở mặt tích cực của nó.
Tâm chỉ thực sự bình an khi không xao động, có khả năng làm chủ, không bị hoàn cảnh bên ngoài tác động, chi phối, lôi kéo, dẫn dắt; không bị các phiền não (tham lam, sân hận, si mê, ganh ghét, đố kỵ, kiêu căng,...) chi phối, bức bách làm cho khổ não, bất an.
Tâm bình an là tâm có sự tự chủ, tự do. Thật ra tâm bình an quan trọng hơn thân bình an rất nhiều. Thông thường khi thân không bình an (bị tai nạn, bệnh tật hoặc hoàn cảnh đói, khát, nóng, lạnh, thiên tai dịch họa) thì tâm có cảm giác khó chịu, khổ não, bất an. Và ngược lại, khi tâm phiền não (tức giận, buồn bã, lo lắng, sợ hãi...) thì thân cũng có những biến đổi thể chất gây căng thẳng, mệt mỏi, khó chịu, thậm chí là bệnh tật. Tuy nhiên, nếu có nhận thức tốt, tư duy tích cực, có sự làm chủ tâm, kiểm soát tốt cảm xúc thì chúng ta có thể hạn chế, làm giảm thiểu những cảm giác khó chịu hoặc nỗi khổ niềm đau do thân hay hoàn cảnh bất an mang lại.
Chính vì thế mà đạo Phật đề cao vai trò, tầm quan trọng của việc tu tập tâm và phát huy chánh kiến, trí tuệ. Mục tiêu chính yếu, rốt ráo, tối hậu của con đường tu tập Giới - Định - Tuệ hay Bát chánh đạo là thành tựu tuệ giải thoát (trí tuệ thấy rõ Tứ đế, thực tính vô ngã, vô thường của mọi sự vật hiện tượng, phá tan vô minh, ảo kiến) và tâm giải thoát (tâm tự tại giải thoát khỏi chấp thủ và tham ái, không còn bị phiền não kiết sử chi phối), ngoài mục tiêu này ra không còn mục tiêu nào khác. Chỉ khi đạt được mục tiêu này mới có khả năng giải thoát mọi phiền não khổ đau và an nhiên giữa sinh tử, vô thường.
Trong đời sống thường ngày, nếu tâm không bình an, đang trong tình trạng lo lắng, sợ hãi, căng thẳng hay sân giận,.. thì dù cho thân và hoàn cảnh an ổn, không có bất trắc, rủi ro xảy ra, điều kiện sống tốt, chúng ta vẫn khổ, người ta thường gọi nỗi khổ này là khổ tâm (còn khổ thân là vất vả nhọc nhằn, đói khát, đau nhức,..). Chính vì thế mà cần phải có nhận thức đúng, có trí tuệ thấy rõ bản chất đời sống, thực tướng của hiện hữu, cần phải có sự tu tập tâm để xa lìa phiền não kiết sử.
Mỗi người chúng ta và hoàn cảnh sống luôn luôn thay đổi vô thường, chắc chắn không ai tránh khỏi những điều bất như ý. Có những biến cố lớn ập đến một cách bất ngờ, không lường trước gây sốc, kích động mạnh khiến con người dễ dàng gục ngã. Nếu từ trước đã có sự rèn luyện, tu tập tâm, giữ được sự bình an trong tâm trước mọi biến cố thì chúng ta không khổ hoặc nỗi khổ niềm đau không lớn.
Ví dụ như trong hoàn cảnh thế giới và nước ta hiện nay, dịch bệnh Covid-19 hoành hành, mọi người phải đối mặt với vấn đề tồn vong - còn mất, đối mặt với những biến đổi, xáo trộn trong đời sống xã hội, suy thoái kinh tế, khủng hoảng toàn cầu, con người sống trong bất an, hoang mang, lo sợ.
Thực trạng đại dịch là hiểm họa đáng sợ, nhưng sự thiếu hiểu biết, kém nhận thức, tư duy tiêu cực, mất kiểm soát tâm khiến cho nỗi lo lắng, sợ hãi, khủng hoảng xâm chiếm và chi phối hành động con người nhiều hơn. Không ít người rơi vào tình trạng hoảng loạn, phản ứng thái quá, có những hành động không phù hợp, tiêu cực, tâm họ hoàn toàn mất hết sự bình an và việc làm của họ ảnh hưởng xấu cho cộng đồng, ảnh hưởng đến sự bình an của nhiều người khác.
Những ai có hiểu biết, có nhận thức đúng về dịch bệnh, về con đường lây lan và các biện pháp phòng chống, những ai làm chủ được tâm mình trước nỗi sợ thì họ không bị hoàn cảnh dịch bệnh làm cho khủng hoảng tinh thần, mất hết lý trí và tình người, họ biết ứng xử phù hợp, làm những việc có ích cho mình và mọi người, đoàn kết và giúp đỡ, sẻ chia để cùng nhau vượt qua hoạn nạn.
Bình an là nhu yếu của đời sống hạnh phúc. Những bất ổn hoặc nguy cơ bất ổn đe dọa sự bình an của thân, của tâm hay cả hai đều dẫn đến sự mất hạnh phúc. Nhưng dòng đời bất định, cuộc sống vô thường, mọi thứ đều luôn chuyển biến, đổi thay, vì thế không có sự ổn định, bình an vĩnh viễn.
Trong Phật giáo, biện pháp giúp thân và tâm bình an ngay trong hiện tại và ở tương lai là trang bị cho mình tư lương Giới - Định - Tuệ.
Giới là đạo đức, đời sống và hành vi thiện có ích cho mình và mọi người, cho gia đình, cộng đồng xã hội và thế giới. Nếu con người sống đạo đức, có ý thức trách nhiệm đối với bản thân, cộng đồng xã hội và thế giới, không có lối sống và hành vi ứng xử tiêu cực đối với môi trường sống, thiên nhiên và muôn loài thì hạn chế được rất nhiều những nguy cơ hiểm họa như thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh.
Định là năng lực an tịnh, định tĩnh, làm chủ tâm lý, cảm xúc, không bị hoàn cảnh bên ngoài tác động làm cho rối loạn nội tâm và hành vi ứng xử.
Tuệ là nhận thức đúng đắn, hiểu biết rõ ràng, có chánh kiến. Có nhận thức đúng và tư duy tích cực mới không sinh ra hoặc ít sinh ra nỗi hoang mang, lo sợ, khổ não trước những biến hoại vô thường. Nhất là khi hiểu biết sâu sắc về quy luật duyên sinh - nhân quả và các đặc tính vô ngã (duyên sinh, không tự tính), vô thường (luôn thay đổi, không thường hằng bất biến) của vạn sự, vạn vật, tâm bớt tham ái (khao khát, tham muốn, quyến luyến), thôi bám víu, chấp thủ, từ đó không rơi vào những hệ lụy do phiền não sinh khởi và chi phối.
Giới - Định - Tuệ là cốt tủy của Bát chánh đạo (thuộc Đạo đế, chân lý về con đường giải khổ hay phương pháp thoát khổ). Có Giới - Định - Tuệ thì tâm định tĩnh sáng suốt, an ổn, hạnh phúc, vượt thắng những tình cảm, tâm lý thông thường vốn là nguồn gốc của khổ não, bất an. Chính tâm bình an và sáng suốt này sẽ chỉ đạo cho thân có những hành động tích cực, phù hợp, làm lợi lạc cho mình và mọi người.