Cây hạnh xôn xao

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
0:00 / 0:00
0:00
GN - Tôi nghĩ mình ít ra cũng nhiễm cái tánh lạc quan và yêu cây cỏ của ba mình từ đâu đó trong gen, nếu giữa cha và con chắc chắn có cái gọi là gen di truyền.

Ba tôi luôn làm một cái gì đó để tạo cho ông niềm vui, sự hoan hỷ len lỏi nhỏ bé trong cái cây ông trồng, bình trà ông châm ra uống, cái chỗ ông ngồi hóng gió ven sông. Hẳn là, làm điều tự mình ưng ý, trong hàng đống bất ưng mà cuộc đời vốn dĩ chất lên mình, ông đã cảm thấy dễ chịu.

Như bữa lĩnh mùa lương hưu cuối cùng trong năm, ông ghé qua khu chợ nhỏ, lựa mua một cây hạnh trái lúc lỉu vàng rộm để chơi Tết. Đó là một điều phải nói lạ lẫm với nhà tôi hồi ấy, bởi Tết má tôi lo chạy vạy đủ gạo muối thịt thà quần áo là đã mệt phờ, đâu còn có khoản chi nào cho bông hoa cây cỏ.

Nhưng, cái cảnh ba tôi vác chậu cây hạnh đi trên triền đê cỏ xanh um, giữa cái nắng chỉ hơi rực nhẹ của mùa bắt đầu xuân, với con chó vàng tai cụp chạy ra đón, nhảy lửng tửng và sủa ăng ẳng ở phía trước ông, sao mà nó vừa giản dị vừa đẹp đẽ. Niềm vui nhẹ nhàng lan tỏa trong dáng vẻ của gương mặt và cử chỉ, bỏ qua cái lắc đầu không mấy đồng tình của má, ông đặt cây hạnh bên thềm nhà, gọi mấy đứa con ra xem cái cây như một món gì kỳ thú.

Cái cây hạnh đó tồn tại qua rất nhiều mùa Tết. Sau cái Tết đầu tiên, ba đem hạ thổ nó ở trước sân nhà. Cây hạnh đã bén đất, lớn lên, cằn đi với những mùa trái bắt đầu nhỏ dần. Nhưng đến dịp nở hoa, nó vẫn nảy lộc xanh mướt và bung những chiếc bông trắng thơm lừng góc nhỏ. Bông nở đến lúc rụng cánh thì chìa ra những cuống nhụy tròn xanh lúc lắc, những nhụy xanh này sẽ thành trái trên cành, đủ để tôi hái làm rất nhiều ly hạnh đá đường thơm lừng giải khát.

Có hôm ba đi đâu đó về với cái cây sa-pô-chê. Ông cuốc đất ở phía bên phải chái nhà, đặt cây sa-pô-chê vào đó. Ông rất thích trồng mỗi thứ một loại cây ăn trái, với niềm mong muốn giản dị chỉ là nhìn cái cây lớn lên, nhìn trái của chúng vắt vẻo, và những trái này chỉ để phục vụ cho đám con cháu - chớ không phải là kiểu trồng thành vườn để bán. Ông không có khả năng làm vườn, mà chỉ có khả năng trồng những thứ chơi chơi như vậy. Trái sa-pô-chê chín đầu tiên là trái mà ông hái trong buổi chiều nọ. Ông gọi tôi ra, đặt vào tay tôi, biểu ăn đi xem có ngọt không.

Phải nói, hồi nhỏ tôi không gần gũi ông lắm. Vì mọi thứ. Thứ dễ thấy nhất là ông khó tính và xa cách, chưa bao giờ tỏ ra yêu chiều bất cứ đứa con nào. Nhiều lần tôi còn thấy ấm ức bởi cái tính hào hoa tài tử của ông, luôn bỏ má tôi trơ trọi với mảnh vườn, và ông thì đi làm những chuyện không đâu.

Rồi thêm cái cây dành dành hoa trắng ông trồng ngay cạnh lu nước trước cửa nhà. Cái cây lớn lên, nở những bông hoa trắng to cỡ nắm tay tôi, với mùi thơm dịu dàng thanh khiết của mùi hoa lài. Ông nói trồng gần cái lu nước như vậy để mùi thơm của bông hoa sẽ lan tỏa vào nước trong lu. Thành ra rửa mặt, hay nấu ăn, hay nấu sôi để châm trà, nước sẽ có mùi thơm tinh tế. Thực sự tôi không ngửi thấy mùi dành dành trong nước, dù những bông hoa vẫn nở trắng cây. Sau này tôi nghĩ, có khi đó chỉ là giấc mơ mà ông nằm mộng thấy, rằng được uống thứ nước thơm ướp hoa. Giấc mơ mà lúc thức giấc, ông quên đi nhưng chắc chắn nó đã để lại điều gì đó kỳ diệu và bí ẩn, đầy tinh tế mà cũng đầy mộng mị. Làm một người vừa bận rộn vừa thảnh thơi, vừa khó hiểu vừa dễ tổn thương, ông ở đó, mà lại như xa lắc.

Cái cây hạnh nọ vẫn xôn xao như những mùa xuân của nhiều năm trước, lại nhắc tôi nhớ đến giọt nước mắt của lần đầu tiên tôi thấy ba mình đứng khóc. Mu bàn tay ông quệt ngang mắt, quệt ngang buổi trời chiều nọ khi ông đứng từ tầng một của bệnh viện, ngó theo bóng tôi dắt xe ra về.

Tôi nghĩ mình đã đủ ân hận, đủ gánh quá nhiều ký ức. Nhưng có những thứ ký ức cứ lặng lẽ ở đó, thậm chí chúng mọc rễ và bén đất. Trong một thoáng thiếu cảnh giác, chúng ra nhánh lá xanh, đơm cái nụ. Cái cây ký ức - như cái cây hạnh, sống lặng lẽ góc sân, nối lại những đứt rời và thấu suốt mọi lẽ đời bằng lòng vô ưu độ lượng.

Tôi nghĩ mình đã biết nhớ đến ông, đến ba mình, như nhớ một phần thịt da đã đứt rời nhưng vẫn là của mình, ở tận cõi vô thường nào đó.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Vài nét về lịch sử Tăng đoàn Tỷ-kheo-ni

Vài nét về lịch sử Tăng đoàn Tỷ-kheo-ni

NSGN - Tăng đoàn Tỷ-kheo-ni được thành lập vào thời Đức Phật và tồn tại cho đến ngày nay. Trong nhiều thế kỷ, những phụ nữ xuất gia đã thực hành, chứng ngộ và giữ gìn lời dạy của Đức Phật, không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân mà còn cho xã hội nơi họ sinh sống.
Ảnh minh họa

Làm sao đưa Phật pháp đến với tuổi trẻ?

GNO - Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các chương trình chánh niệm tại trường học có thể giúp ích, đặc biệt là ở các cộng đồng nghèo, nơi học sinh phải đối mặt với mức độ căng thẳng cao hơn.

Thông tin hàng ngày