Quê nội tôi ở vùng Đại Lộc, bên này sông. Vùng đất cao gần núi, ruộng mạc chẳng lấy gì làm trù phú. Thẳng đường đi là lên tới Tây Nguyên. Bà Hai lấy chồng ở vùng Điện Bàn, bên kia sông. Ở xứ này, vùng đó là thượng đẳng điền, đất đai trù phú, làng mạc phong nhiêu hơn hẳn.
Hồi nhỏ, tôi còn nhớ, mỗi lần đám giỗ, ông bà Hai chở nhau về trên chiếc xe đạp cũ màu đỏ, cái càng xe đã hoen gỉ phần nhiều. Ông có bộ râu dài, đeo cặp kính dày cộp như đít chai, mặc sơ mi đội nón phớt, mang đôi dép nhựa lúc nào cũng sạch sẽ. Bà ngồi sau, mình mặc bà ba lụa, tóc bới trâm cài mướt rượt, đội nón lá, tay xách khi bịch bánh ít, lúc bưng khay xôi đường, tùy mùa tùy thức. Từ bên kia sông, về giỗ như vậy là phải đi từ sớm, đạp xe xa lắc.
Nhưng hình như chưa cái đám giỗ nào hồi đó vắng mặt ông bà. Mỗi lần về tới đầu hàng rào chè tàu trước ngõ, ông dừng xe, bà trụt xuống sửa áo, chỉnh tóc, thong dong từng bước quẹo vô sân. Mùa chạp mả, có những năm hơi xuân còn chưa dứt hẳn, cây mai già trước cổng cao lớn vượt cả mái nhà còn bung hoa vàng ươm một góc trời, rắc vàng óng ả xuống khoảnh sân gạch con con, gieo những cánh lơ thơ xuống mặt bể cạn lăn tăn trong nắng sớm. Bóng dáng ông bà Hai đi vào, chiếc nón lá cùng màu áo lụa bạch như sáng lên trong nắng, in lên mấy hàng chè tàu xanh mướt. Ông dựng xe đạp nơi gốc mai già, ngẩng đầu ngắm nghía một chút rồi sửa áo đi vô sân, bà đứng chờ, rồi theo bước.
Ông nội tôi luôn tiếp đón bà chị mình theo cung cách chào hỏi hết sức lễ nghĩa kiểu xưa, mà bây giờ có thể người ta nghe lại sẽ thấy có phần quá khách khí. Khác với các bà em gái, em dâu trong nhà, bà thường không phải xuống bếp, chỉ lên thắp hương, đi quanh chào hỏi dăm ba câu rồi ngồi nhà trên tiếp chuyện. Hình như đó là đặc quyền của bà con gái trưởng. Trong trí nhớ trẻ con của tôi hồi đó, ông bà Hai hiền khô, lúc nào cũng cười, thỉnh thoảng mới góp chuyện đôi ba câu. Bàn tay ông lúc nào cũng run run do chứng Parkinson tuổi già.
Bà Hai đẹp, một kiểu đẹp của quá khứ xa xăm. Thời ấy, so với bối cảnh, với đám đông quanh mình, bà như một người lạc thời. Nghe ông nội nói, trong nhà, vì bà sinh ra sớm nhất, nên còn là người duy nhất được rèn dạy theo khuôn thước “hồi xưa”. Một thứ khuôn thước vừa hay ho, vừa nghiệt ngã. Tôi cũng nghe bà nội nói, nhà ông bà nghèo. Người già, sống đời nhà nông vốn trông trời trông đất cũng chẳng thể khấm khá hơn. Nhưng sau này, lớn lên, nhìn lại, tôi nhận ra hình như đó là một thứ nghèo kiêu hãnh, khi con người ta giữa khó khăn tấp nập xua đuổi, vẫn phải cố gắng giữ được cái nề nếp đã bám rễ chặt trong tâm trí mình. Cái nghèo chỉ còn bắt gặp trong những người muôn năm cũ, mà giữa thời buổi kim tiền, có khi lại chẳng mấy ai thấy hay ho, hoặc chăng là một điều gì đáng quý.
Chiều nay trong nhà báo tin bà Hai mất, khép lại cuộc đời vắt qua gần một thế kỷ, có lẽ cũng đủ vui buồn. Đứa trẻ con nào cũng phải lớn, người già nào cũng phải ra đi. Nhưng có lẽ mỗi người già ra đi, ít nhiều cũng mang theo một phần tuổi thơ của những đứa trẻ con đã lớn.
