Thêm một lần hoa nở

GNO - Ở quê tôi, chùa chiền nhiều lắm. Nếu bảo rằng càng sống trong gian khổ, khắc nghiệt, đức tin của con người càng lớn thêm lên, thì quê hương tôi là một chốn như thế.
Bài trên Báo Giác Ngộ số 1202 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn
Bài trên Báo Giác Ngộ số 1202 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn

Nơi đầu sóng ngọn gió, nắng cũng cộc cằn mà mưa cũng thê thiết, người ta không biết được sẽ có điều gì xảy đến ngày mai. Có lẽ vậy, do cái điều kiện hữu hình gieo neo ấy mà con người cần một điểm tựa lớn hơn hết cho tâm hồn để có thể sống, có thể tiếp tục ước mơ và hy vọng.

Ngày còn nhỏ, tôi không suy nghĩ xa xôi đến thế. Tôi chỉ biết quê tôi nhiều chùa chiền lắm. Trong khu tôi ở cũng có một ngôi chùa. Trong chùa có Phật, có Bồ-tát, có ông sư già lành như đất, ít nói năng. Đôi lần tan học, đi bộ từ trường về nhà, ngang qua chùa, thấy ông cầm chổi quét sân từng nhát cần mẫn. Nếp chùa nhỏ, mái ngói cũ kỹ, đôi chỗ mất ngói trong mùa bão được chắp vá mấy mảnh tôn kẽm. Hồi ấy, trong xóm ven biển, ai cũng nghèo.

Nhà tôi dọn đến xóm vào năm tôi 10 tuổi, ở cạnh nhà ông Cam. Gia đình ông đông con, cả xóm lại đều là bà con của ông, sống quây quần. Gia đình ông tin Phật, là Phật tử thuần thành. Hồi ấy tôi nghe nhắc đến từ Phật tử thuần thành đầy tự hào từ ông, nhưng chẳng hiểu đó là gì. Chỉ biết ông Cam rất hiền, mỗi chiều tối lại đi cùng người cha đã ngoài tám mươi mà tôi hay gọi là ông cố sang chùa. Ở chùa ông sửa sang cây cối, vườn tược, rồi lên thỉnh đại hồng chung. Giữa cái không gian yên ắng của xóm, tiếng chuông vọng vang khắp nơi, êm đềm. Những đêm mất điện, trời im bặt, tiếng chuông lẫn vào tiếng sóng biển rì rầm xa xa. Cứ thế, cuộc sống êm ả trôi đi trong xóm nhỏ, với ngôi chùa nhỏ.

Đến giờ, tôi không nhớ rõ hình dáng ngôi chùa năm xưa như thế nào, chỉ nhớ nhất lần đầu tiên tôi bước vào ngôi chùa ấy. Đó là vào dịp Phật đản. Hồi ấy, cứ tới rằm tháng Tư, cả xóm nhỏ bỗng rộn ràng hẳn lên. Những diềm mái tôn cũ kỹ, mục rỉ vì gió biển ăn mòn bỗng sáng rực lên màu cờ Phật. Hơn một tuần trước ngày rằm, lễ đài được dựng lên trước sân chùa.

Cho đến tận bây giờ, trong tâm tưởng, tôi vẫn không hiểu bằng cách nào người trong xóm tôi dựng được những lễ đài Phật đản bề thế đến vậy. Năm thì là những cánh sen đóng bằng cót sơn hồng pha cao đến tận nóc chùa; năm lại là tòa tháp 5 tầng sơn 5 màu cờ Phật; năm là một vầng hào quang kết bằng vải màu vàng thật lớn; và chính giữa, luôn luôn là tượng Phật sơ sinh một tay chỉ trời một tay chỉ đất. Đêm xuống, những bóng đèn gắn trên lễ đài chớp sáng cả một góc, trên đỉnh cao nhất của lễ đài là bánh xe Pháp gắn mô-tơ, đèn chớp sáng xoay tròn. Những ngày ấy, bọn trẻ con chúng tôi say mê với lễ đài Phật đản, với bánh xe Pháp xoay tròn chớp tắt trên đỉnh cao mà sau này tôi biết người làm ra nó là anh Tý thợ hàn đầu xóm.

Cũng chính vào mùa Phật đản, lần đầu tiên tôi bước chân vào chùa. Đêm mười bốn, các anh chị trong xóm kéo nhau sang chùa từ sớm để diễn văn nghệ. Tôi sợ ba mắng, đứng trù trừ vịn cổng, không dám xin đi. Chị Tuyến, anh Tuyên con ông Cam mặc đồ Gia đình Phật tử đi ngang, nhác thấy tôi, chạy vào mở cổng kéo tay, gọi với vào trong nhà: “Cho em nó đi chơi với bọn cháu nhé!”. Rồi tôi chạy ù ra, vui khôn tả.

Đến cổng chùa, tôi ngước lên nhìn, cả lễ đài rực ánh đèn, tượng Phật sơ sinh như ánh lên thật nhiệm mầu. Chị Tuyến kéo tôi vào trong chùa dặn: “Loanh quanh đây chơi thôi đừng đi ra khỏi chùa…”. Tôi gật đầu, nhìn quanh. Cả xóm tôi đều ở đây cả rồi. Nhìn ai cũng vui, ai cũng mặc đồ thật đẹp. Tiếng nhạc từ trong loa phát lên ngân nga: “Chào mừng đón Đản sanh lừng vang/ Tòa sen ngát trầm hương tỏ lòng thành tâm chúng ta/ Nguyện chớ quên ơn dày cao Đức Từ bi…”.

Tôi bỗng tò mò muốn vào trong chùa. Vòng ra sau, ngập ngừng bước chân vào trong điện Phật. Bên ngoài thật rộn ràng, nhưng trong đây sao êm dịu quá. Mùi hoa huệ quyện mùi trầm thơm nhè nhẹ. Tôi bước hẳn vào trong, đi thật chậm đến trước tượng Phật. Một đứa bé con tầm 3, 4 tuổi nằm ngủ ngay dưới chỗ thờ Phật. Có tiếng cười nói, tập bài hát của các anh chị Phật tử vọng sang từ gian nhà hậu. Ở đây, đứa bé vẫn ngủ say dưới chân án thờ. Ở trên cao, tượng Đức Phật ngồi tĩnh tọa, tay bắt ấn kiết tường, mắt trông xuống thật hiền từ. Tôi nhìn Phật, rồi nhìn đứa bé con nằm ngủ. Giấc ngủ thật lành, đứa bé con như thoáng mỉm cười rồi trở mình, trong thoang thoảng trầm hương, hoa huệ, dưới ánh nhìn bao dung của Đức Phật.

Hình ảnh năm nào in chặt trong đầu, và cũng giây phút đứng trước khung cảnh đặc biệt như vậy, trong tôi bỗng dậy lên một cảm giác kỳ lạ. Đến bây giờ, tôi vẫn không thể diễn tả được cảm giác khi ấy là gì. Là xúc động? Là cảm mến? Là thành kính hay hy vọng? Tôi không hề biết. Mãi đến nay, tôi cũng không hề biết.

Chỉ có một điều duy nhất tôi biết rõ, bây giờ, tôi đã trở thành một Phật tử.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày